Công ty Luật Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 334 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 0911666884- 0924.488.884.

Công ty Đấu giá Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 07 Khúc Hạo, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng

Kim Trọng Hùng Group Kính chào Các bạn

Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng. Website:luatkimtronghung.com.

Luật sư Vũ Trọng Kim-CT Hội cựu TNXP

Ủy viên trung ương ĐCS khóa VIII, IX, X, XI. Đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XIII, XIV.

Luật sư Nguyễn Cao Hùng-Giảng viên thỉnh giảng Luật Đầu tư

Tác giả sách: 200 câu hỏi đáp về Khiếu nại, tố cáo. Đồng tác giả sách: Bình luận KH BLTTHS 2015-XNB CAND

Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Pháp luật hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2018

VỤ ÁN MOBIFONE-AVG

VỤ ÁN MOBIFONE MUA AVG

Ngày 25/12/2015, MobiFone ký hợp đồng với cổ đông AVG nhận chuyển nhượng 95% cổ phần AVG với tổng giá trị khoảng 8.889 tỉ đồng. Trong vòng 22 ngày sau, MobiFone đã thanh toán khoản tiền gần 8.445 tỉ đồng cho AVG.
Cuối năm 2015, MobiFone công bố việc mua lại AVG nhưng giá trị của thương vụ này không được tiết lộ. Tháng 11/2016, lần đầu tiên MobiFone công bố giá trị thương vụ này là 8.889 tỷ đồng. Việc thanh tra toàn diện việc MobiFone mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) đã bắt đầu từ tháng 9/2016.

A. TÓM TẮT VỤ ÁN MOBIFONE-AVG
Thương vụ xuất phát từ tháng 10/2014, khi AVG có văn bản gửi Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông (4T), lúc đó là BT Nguyễn Bắc Son, về việc AVG chuyển nhượng cổ phần cho NĐT nước ngoài để trở thành cổ đông chiến lược, giá mua bằng 7 lần giá vốn, tức vào khoảng 525 triệu USD, tương đương 75% cổ phần. AVG đã nhận cọc 10 triệu $. Nhưng khi TTCP vào cuộc thì cả AVG và Bộ 4T đã không cung cấp được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào về việc AVG đàm phán và nhận khoản đặt cọc 10 triệu $ với NĐT nước ngoài. Như vậy việc này là không có thật.
Sau đó, Bộ 4T đã yêu cầu Bộ Công an xem xét hướng dẫn AVG chuyển nhượng cổ phần. Ngày 8/12/2014, Bộ Công an có văn bản gửi Bộ 4T hướng dẫn AVG không được phép chuyển nhượng cho nước ngoài mà chỉ nên bán cổ phần cho NĐT trong nước.
Ngày 1/12/2014, Bộ 4T ra Quyết định 1798, thành lập Tổng công ty viễn thông MobiFone trên cơ sở tổ chức lại Công ty TNHH MTV Thông tin di động, bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh phát thanh truyền hình. Như vậy, ông Nguyễn Bắc Son đã ký quyết định bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh cho MobiFone sau khi xảy ra việc AVG chào bán cổ phần.
Ngày 27/1/2015, ông Lê Nam Trà, quyền Chủ tịch HĐQT MobiFone đã có văn bản trình Bộ 4T xin phê duyệt đầu tư dịch vụ truyền hình theo phương thức mua lại một hãng truyền hình kỹ thuật số. Và ngày 6/2/2015, Bộ TT-TT có Công văn số 408/BTTTT-QLDN thống nhất chủ trương theo đề xuất của MobiFone. Đến ngày 20/3/2015, MobiFone và AVG ký HĐ ghi nhớ việc mua bán cổ phần.
Sau đó, việc mua bán chuyển nhượng cổ phần có giá trị lên tới hàng ngàn tỉ đồng của nhà nước bị che kín bởi dấu tài liệu “mật”, toàn bộ quá trình đàm phán, đấu thầu, kể cả thẩm định giá. Đây là chiêu thức nhằm không ai biết, can thiệp vào việc người có chức vụ quyền hạn của MobiFone lấy tiền nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp thông đồng với tư nhân.
Việc MobiFone dù biết tình hình kinh doanh của AVG rất xấu (âm 50%VĐL, thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng, các số liệu về dự án này thiếu cơ sở, kết quả thẩm định giá của các đơn vị thẩm định thiếu căn cứ,..) được báo cáo cho Bộ 4T, khi tiến hành thẩm định, lập và phê duyệt dự án, 4T tại văn bản số 5054/MOBIFONE ngày 14/9/2015, số 5441/MOBIFONE ngày 28/9/2015 và số 58/MOBIFONE ngày 25/9/2015 nhưng lãnh đạo Bộ 4T không chỉ gạt bỏ ý kiến phản biện của cấp dưới, báo cáo sai sự thật với Thủ tướng (NTD) về tình trạng bết bát của AVG. 
Cả khi ông Nguyễn Bắc Son ký quyết định thành lập tổ thẩm định (gồm 6 người) dự án, lãnh đạo 4T đã không tôn trọng ý kiến của các thành viên trong tổ, thậm chí gạt bỏ ý kiến phản biện. Tổ này họp vào ngày 8/10/2015, nhưng cuộc họp không ghi biên bản. Đáng lưu ý, 5 thành viên của tổ có báo cáo gửi tổ trưởng là ông Phạm Đình Trọng - Vụ trưởng Vụ Quản lý DN. Trong đó, Vụ trưởng Vụ Pháp chế có bản nhận xét nêu 2 ý kiến, trong đó nổi bật là nội dung phân tích để lựa chọn phương án mua cổ phần AVG thay vì đầu tư mới còn sơ sài, chưa đầy đủ thông tin cụ thể, cũng như chưa phân tích, so sánh ưu nhược điểm từng phương án.
Ngày 28.10.2015, ông Phạm Đình Trọng là tổ trưởng tổ thẩm định đã tham mưu để Bộ 4T ra Văn bản số 209/BTTTT-QLDN trình Thủ tướng xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư với dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của MobiFone. Trong đó ghi rõ: “Dự án đầu tư ra ngoài DN của MobiFone có mức đầu tư 8.900 tỉ đồng thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ” và kiến nghị Thủ tướng xem xét phê duyệt.Tuy nhiên, ông Nguyễn Bắc Son còn “bút phê” cho Thứ trưởng Trương Minh Tuấn (nay là bộ trưởng), lạm quyền ký luôn quyết định phê duyệt dự án thay cho Thủ tướng.
Ngoài ra, Phó cục trưởng Cục Báo chí ngày 15/10/2015 cũng có báo cáo nêu, dự án chưa có điều kiện đi sâu phân tích những lợi thế của AVG so với các DN nhà nước khác kinh doanh truyền hình. Đồng thời cảnh báo hiện có nhiều DN kinh doanh truyền hình đang thua lỗ và bị sụt giảm thị phần nghiêm trọng, dù tồn tại trên thị trường đã nhiều năm.
Tuy nhiên, tất cả ý kiến phản biện trên đã bị bỏ qua. Ngoài ra, Bộ 4T báo cáo nhiều nội dung của dự án không đúng, không đầy đủ, không khách quan với Chính phủ như: Việc đối tác nước ngoài mua AVG giá 700 triệu USD, đã đặt cọc 10 triệu USD; việc AVG sử dụng 4 băng tần có giá trị lớn và tạo ra lợi thế nhưng không được loại trừ ra khi định giá AVG...
Tháng 7/2017, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng đặt vụ Mobifone- AVG vào nhóm các vụ cần "khẩn trương thanh tra". Nhưng tiến trình được đẩy tới bước ngoặt sau khi Ban Bí thư Đảng Cộng sản, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tuyên bố hôm 8/03" đây là một vụ việc rất nghiêm trọng, phức tạp, nhạy cảm".
Sáng hôm 13/3 Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo Ban Bí thư, Thường trực Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ về thông tin hủy bỏ thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần giữa Tổng Công ty Viễn thông MobiFone thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông và Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG). 
Dư luận cũng đặt câu hỏi về vai trò của Bộ trưởng Thông tin - Truyền thông, Trương Minh Tuấn, trong việc giám sát thương vụ này. Hồi tháng 11/2017, Bộ trưởng Trương Minh Tuấn đã bị một đại biểu Quốc hội chất vấn về thương vụ Mobifone mua AVG. Trả lời đại biểu Lê Thanh Vân, ông Trương Minh Tuấn cho biết đến thời điểm đó, ông "chưa nhận được kết luận từ Thanh tra Chính phủ", dù công tác thanh tra đã tiến hành xong 15 tháng trước, theo báo Tuổi Trẻ.

Trước đó, vào tháng 6/2017, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty MobiFone Lê Nam Trà được chuyển về Bộ Thông tin - Truyền thông, còn Thứ trưởng Phạm Hồng Hải được cử sang tạm thời điều hành MobiFone. Sáng tháng 8, ông Hải trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Mạnh Thắng làm Chủ tịch Hội đồng thành viên Mobifone. Đến tháng 12/2017, ông Cao Duy Hải, Tổng Giám đốc MobiFone đã được lãnh đạo Bộ Thông tin - Truyền thông "cho phép nghỉ ốm để chữa bệnh".

B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ:

1. MOBIFONE MUA AVG CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ (bao gồm luật quản ly, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp số 69/2014/QH13, Luật đầu tư năm 2014 số 67/2014/QH13, cùng ban hành ngày 26/11/2014, hiệu lực ngày 01/07/2015; và luật đầu tư công số 49/2014/QH13 ban hành ngày 18/6/2014 hiệu lực ngày 01/01/2015):

Điều 9 (luật 69). Hành vi bị cấm trong lĩnh vực đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
1. Quyết định đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp không đúng thẩm quyền, phạm vi, trình tự, thủ tục. 
2. Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn vào hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
3. Thực hiện không đúng quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước trong việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
4. Thực hiện không đúng quy định về quản lý, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và quản lý phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. 
5. Giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. 
6. Cung cấp thông tin, báo cáo không trung thực, không chính xác, không đầy đủ, không kịp thời theo quy định của pháp luật. 
7. Tiết lộ, sử dụng thông tin do doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước cung cấp không đúng quy định của pháp luật.

Điều 28 (luật 69). Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp 
1. Việc sử dụng vốn, tài sản, quyền sử dụng đất của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan; phù hợp với chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp. 
2. Hình thức đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Góp vốn để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; góp vốn thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới; 
b) Mua cổ phần tại công ty cổ phần, mua phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; 
c) Mua toàn bộ doanh nghiệp khác; 
d) Mua công trái, trái phiếu. 
3. Các trường hợp không được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Góp vốn, mua cổ phần, mua toàn bộ doanh nghiệp khác mà người quản lý, người đại diện tại doanh nghiệp đó là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Kiểm soát viên, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc, Kế toán trưởng của doanh nghiệp; 
b) Góp vốn cùng công ty con để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. 
4. Thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định từng dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp với giá trị không quá 50% vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm quyết định dự án nhưng không quá mức vốn của dự án nhóm B theo quy định của Luật đầu tư công. 
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phân cấp cho Tổng giám đốc hoặc Giám đốc quyết định các dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo quy định tại điều lệ hoặc quy chế tài chính của doanh nghiệp; 
b) Trường hợp dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp có giá trị lớn hơn mức quy định tại điểm a khoản này, dự án góp vốn liên doanh của doanh nghiệp với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, dự án đầu tư vào doanh nghiệp khác để cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt.

Điều 5. Lĩnh vực đầu tư công
1. Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
2. Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích.
4. Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư.

Điều 16 (luật 49). Các hành vi bị cấm trong đầu tư công
1. Quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không đúng thẩm quyền; không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; không cân đối được nguồn vốn đầu tư.
2. Quyết định đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc không đúng với chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái với quy định của pháp luật về đầu tư công.
3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, vụ lợi, tham nhũng trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
4. Chủ chương trình, chủ đầu tư thông đồng với tổ chức tư vấn dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của quốc gia; làm tổn hại, xâm phạm lợi ích của công dân và của cộng đồng.
5. Đưa, nhận, môi giới hối lộ.
6. Yêu cầu tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư khi chương trình, dự án chưa được quyết định chủ trương đầu tư, chưa được phê duyệt hoặc chưa được bố trí vốn kế hoạch, gây nợ đọng xây dựng cơ bản.
7. Sử dụng vốn đầu tư công không đúng mục đích, không đúng đối tượng, vượt tiêu chuẩn, định mức theo quy định của pháp luật.
8. Làm giả, làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án.
9. Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không khách quan ảnh hưởng đến việc lập, thẩm định, quyết định kế hoạch, chương trình, dự án.
10. Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không khách quan ảnh hưởng đến việc theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án.
11. Cố ý hủy hoại, lừa dối, che giấu hoặc lưu giữ không đầy đủ tài liệu, chứng từ, hồ sơ liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án.
12. Cản trở việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư công.

Điều 8 (luật 49). Tiêu chí phân loại dự án nhóm A
Trừ các dự án quan trọng quốc gia quy định tại Điều 7 của Luật này, các dự án thuộc một trong các tiêu chí dưới đây là dự án nhóm A:
1. Dự án không phân biệt tổng mức đầu tư thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Dự án tại địa bàn có di tích quốc gia đặc biệt;
b) Dự án tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh;
c) Dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ quốc phòng, an ninh có tính chất bảo mật quốc gia;
d) Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ;
đ) Dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất;
2. Dự án có tổng mức đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, bao gồm cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ;
b) Công nghiệp điện;
c) Khai thác dầu khí;
d) Hóa chất, phân bón, xi măng;
đ) Chế tạo máy, luyện kim;
e) Khai thác, chế biến khoáng sản;
g) Xây dựng khu nhà ở;
3. Dự án có tổng mức đầu tư từ 1.500 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, trừ các dự án quy định tại điểm a khoản 2 Điều này;
b) Thủy lợi;
c) Cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật;
d) Kỹ thuật điện;
đ) Sản xuất thiết bị thông tin, điện tử;
e) Hóa dược;
g) Sản xuất vật liệu, trừ các dự án quy định tại điểm d khoản 2 Điều này;
h) Công trình cơ khí, trừ các dự án quy định tại điểm đ khoản 2 Điều này;
i) Bưu chính, viễn thông;
4. Dự án có tổng mức đầu tư từ 1.000 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
b) Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên;
c) Hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới;
d) Công nghiệp, trừ các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này;
5. Dự án có tổng mức đầu tư từ 800 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Y tế, văn hóa, giáo dục;
b) Nghiên cứu khoa học, tin học, phát thanh, truyền hình;
c) Kho tàng;
d) Du lịch, thể dục thể thao;
đ) Xây dựng dân dụng, trừ xây dựng khu nhà ở quy định tại điểm g khoản 2 Điều này.

Điều 9 (luật 49). Tiêu chí phân loại dự án nhóm B
1. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 120 tỷ đồng đến dưới 2.300 tỷ đồng.
2. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 80 tỷ đồng đến dưới 1.500 tỷ đồng.
3. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 4 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 60 tỷ đồng đến dưới 1.000 tỷ đồng.
4. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 5 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 45 tỷ đồng đến dưới 800 tỷ đồng.

Điều 31 (luật 67). Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ 
Trừ những dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo pháp luật về đầu tư công và các dự án quy định tại Điều 30 của Luật này, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án sau đây: 
1. Dự án không phân biệt nguồn vốn thuộc một trong các trường hợp sau: 
a) Di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng khác; 
b) Xây dựng và kinh doanh cảng hàng không; vận tải hàng không; 
c) Xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia; 
d) Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; 
đ) Hoạt động kinh doanh cá cược, đặt cược, casino; 
e) Sản xuất thuốc lá điếu; 
g) Phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu chức năng trong khu kinh tế; 
h) Xây dựng và kinh doanh sân gôn; 
2. Dự án không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này có quy mô vốn đầu tư từ 5.000 tỷ đồng trở lên; 
3. Dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng, trồng rừng, xuất bản, báo chí, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn nước ngoài; 
4. Dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.

=> KẾT LUẬN: MẶC DÙ CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ, NHƯNG XÉT VỀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA CÁC LUẬT TRÊN THÌ KHÔNG ĐỦ CĂN CỨ KẾT LUẬN MOBIFONE VI PHẠM ĐƯỢC.


Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

ĐIỀU KIỆN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ TRƯỚC HẠN TÙ

ĐIỀU KIỆN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ TRƯỚC HẠN TÙ


I. LUẬT ĐẶC XÁ 2007:

Điều 10. Điều kiện được đề nghị đặc xá

1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

b) Đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành hình phạt tù; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân;

c) Đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.

2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều này được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;

b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;

c) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;

d) Khi phạm tội là người chưa thành niên;

đ) Là người từ 70 tuổi trở lên;

e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;

g) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

3. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc áp dụng điều kiện của người được đề nghị đặc xá theo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước.

II. NGHỊ ĐỊNH 76/2008/NĐ-CP HƯỚNG DẪN LUẬT ĐẶC XÁ 2007
Điều 5. Điều kiện của người được đề nghị đặc xá theo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước 

1. Căn cứ vào Điều 10, Điều 11 của Luật Đặc xá và Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, Chính phủ hướng dẫn cụ thể điều kiện của người được đề nghị đặc xá. 

2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam được coi là đã lập công lớn, là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, là người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật Đặc xá được hiểu nhu sau: 

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù: là người đang chấp hành hình phạt tù đã có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm; cứu được tính mạng của nhân dân hoặc tài sản lớn của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan có thẩm quyền xác nhận; 

b) Người mắc bệnh hiểm nghèo là người bị mắc một trong các bệnh sau: ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên, có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa hoặc bản sao Bệnh án của bệnh viện cấp tỉnh trở lên; nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có những nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu, có phiếu xét nghiệm HIV và kết luận của Trung tâm Y tế cấp huyện trở lên; 

c) Người ốm đau thường xuyên: là người đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện nhiều lần, trong một thời gian dài, không lao động, không tự phục vụ bản thân được và không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế cấp tỉnh trở lên; 

d) Hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình: là người đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam có gia đình đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, không còn tài sản gì đáng kể hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ vợ, chồng, con ốm đau nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà người đó là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình cư trú.

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2016

Bài bào chữa vụ án hình sự của luật sư-ThS Nguyễn Cao Hùng



Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Một bản án gây chấn động dư luận và là phán quyết, có thể nói là đầu tiên của nền tố tụng hình sự Việt Nam.

Một bản án gây chấn động dư luận


Chiều ngày 24/8/2015 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tuyên ông Nguyễn Văn Đồng không phạm tội, trả tự do ngay tại tòa, mặc dù Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã luận tội và đề nghị án chung thân. Người giữ vị trí chủ tọa phiên tòa là một thẩm phán còn rất trẻ, thẩm phán Nguyễn Văn Nhân. Phán quyết này đang gây chấn động dư luận và là phán quyết, có thể nói là đầu tiên của nền tố tụng hình sự Việt Nam.
Theo Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, các thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa là một công chức dưới quyền của lãnh đạo tòa án, gồm có các phó chánh án và chánh án. Ngoài ra các thẩm phán cũng là một đảng viên, thuộc cấp ủy, được lãnh đạo của Bí thư đảng ủy, thường là Chánh án. Mà Bí thư đảng ủy tham gia đảng bộ địa phương thường không nằm trong thường vụ, lãnh đạo công an lại là người trong thường vụ của đảng bộ địa phương. Xét về vai trò, vị trí thì các vị chánh án không có tiếng nói bằng lãnh đạo ngành công an.
Khi xét xử một vụ án, thường các thẩm phán phải thực hiện chế độ báo cáo án cho lãnh đạo tòa án để "thỉnh thị" đường lối xét xử. Đối với những vụ án hình sự và đặc biệt là những vụ án hình sự lớn trước khi truy tố và xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng gồm Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thường họp với nhau để thống nhất đường lối xét xử, gọi là cơ chế phối hợp liên nghành. Đặc biệt là các vụ án bị khởi tố và truy tố với khung hình phạt cao.
Trong vụ làm oan ông Nguyễn Thanh Chấn, nhiều người tiến hành tố tụng đã bị khởi tố, trong đó có cựu thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, người được dư luận và đồng nghiệp đánh giá là hiền lành trong sạch, một người cựu chiến binh Nguyễn Tuấn Chiêm. Vị cựu thẩm phán Nguyễn Tuấn Chiêm đã thốt lên đầy chua sót "không chết vì bom đạn mà chết vì thủ đoạn của công an" khi biết mình bị khởi tố.
Vụ cựu thẩm phán Nguyễn Tuấn Chiêm bị khởi tố chắc chắn đã làm thức tỉnh đại bộ phận các thẩm phán, những người đã được Hiến pháp và pháp luật trao vào tay mình quyền nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại phiên tòa. Thế nhưng buồn thay, ít thẩm phán nào có đủ can đảm, lòng tin để sử dụng thẩm quyền và trách nhiệm mà pháp luật giao cho mình.
Trong quá trình xét xử, nếu thấy chưa đủ căn cứ buộc tội, tòa án thường trao đổi với Viện kiểm sát để đề nghị làm rỏ các vấn đề liên quan và thường trả hồ sơ điều tra bổ sung trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhiều trường hợp đã điều tra bổ sung nhưng không có gì mới, Viện kiểm sát vẫn truy tố thì tòa án phải đưa vụ án ra xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định Tòa án từ chối đưa vụ án ra xét xử theo truy tố của Viện kiểm sát nhưng tòa án có quyền tuyên bị cáo không phạm tội nếu việc truy tố là không đủ cơ sở. Đây là quyền tối cao của tòa án hay nói cụ thể là của Hội đồng xét xử. Tuy vậy đáng tiếc rằng từ trước tới nay rất ít, có thể nói là rất hiếm có Hội đồng xét xử nào tuyên bị cáo không phạm tội khi bị Viện kiểm sát truy tố. Thông thường tòa án sẽ tuyên trả hồ sơ để điều tra bổ sung chứ ít khi có đủ "can đảm" tuyên không phạm tội. Và khi tuyên trả hồ sơ điều tra lại thì việc tiếp tục hay đình chỉ việc giải quyết vụ án thuộc trách nhiệm của của Viện kiểm sát và cơ quan điều tra, khi đó tòa an không còn trách nhiệm gì nữa. Những phán quyết này bị giới luật sư cho là những phán quyết thiếu can đảm và thiếu sự nhận thức về quyền lực của Hội đồng xét xử mà Hiếp pháp và pháp luật đã trao cho.
Nay có một thẩm phán trẻ, cùng Hội đồng xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã phá vỡ "lời nguyền" mà bấy lâu các thẩm phán và Hội đồng xét xử đã bị "trù yếm". Niềm vui đang "vỡ òa", pháo hoa đang tỏa sáng trên "bầu trời" tố tụng Việt Nam.
-------
Thông tin vụ án
Được tuyên vô tội dù bị VKS đề nghị án …chung thân
24/08/2015 21:42 GMT+7
TTO - Chiều 24-8, sau 3 ngày nghị án, TAND tỉnh Bình Phước đã tuyên vô tội, đồng thời trả tự do tại tòa đối với ông Nguyễn Văn Đồng (65 tuổi, ngụ xã Đức Liễu, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước).
Đây được xem là một quyết định bất ngờ và khá hi hữu khi trước đó, vào chiều 21-8, trong phần luận tội, ông Đồng bị Viện KSND Bình Phước đề nghị mức án chung thân về tội “giết người”.
Vụ án “giết người” của ông Đồng cũng được xem là một vụ “kỳ án” ở Bình Phước khi cả ba lần đưa ra xét xử trước đó tòa án đều trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Theo cáo trạng, vào 10g ngày 28-1-2013, ông Đồng đến nhà ông Trần A Ửng (50 tuổi, ngụ cùng xã Đức Liễu) chơi, sau đó tổ chức uống rượu và đánh bài ăn tiền. Lúc này vợ ông Ửng cùng một người con rời nhà đi mua đồ, trong nhà còn lại hai con ông Ửng: cháu Trần Ký Thảo (7 tuổi) và Trần Ký Cường (gần 3 tuổi).
Thấy con khóc nên ông Ửng ngưng đánh bài để dỗ con nhưng Đồng không chịu do đang bị thua tiền, từ đó cả hai xảy ra cự cãi.
Ông Đồng cầm gạch và khúc cây đánh ông Ửng làm rách da đầu, chảy máu. Sau khi bị đánh, ông Ửng đi ra ngồi cạnh giếng, cách nhà khoảng 11m thì ông Đồng xông tới đánh tiếp rồi đẩy xuống giếng. Gây án xong, ông Đồng lên xe đi về nhà.
Khi vợ ông Ửng về đến nhà thì phát hiện chồng đã tử vong dưới giếng.
Tại thời điểm xảy ra án mạng, có một cặp vợ chồng đi làm rẫy, đến vườn cao su gần nhà ông Ửng thì thấy ông Đồng chạy xe máy ngược chiều. Chạy đến gần nhà ông Ửng thì thấy hai con ông Ửng đang khóc.
Từ chứng cứ thu thập và lời khai của một số người liên quan, ngày 29-1-2013, Đồng bị công an bắt khẩn cấp sau đó bị khởi tố và truy tố về tội giết người.
Tại các phiên tòa, đại diện Viện KSND Bình Phước vẫn giữ nguyên quan điểm buộc tội bị cáo Đồng và đề nghị mức án chung thân. Đại diện Viện kiểm sát cho rằng nhân chứng duy nhất trực tiếp trong vụ án là cháu Trần Ký Thảo. Cháu Thảo là người chứng kiến vụ án và xác nhận hung thủ gây án là ông Đồng.
Viện kiểm sát khẳng định quá trình điều tra, truy tố hoàn toàn khách quan, chứng cứ thu thập được hoàn toàn phù hợp với diễn biến của vụ án. Cháu Thảo tuy còn nhỏ nhưng khi tiến hành thực nghiệm hiện trường cháu vẫn chỉ đúng vị trí mà bị cáo Đồng gây án. Ngoài ra trong quá trình điều tra, cơ quan chức năng đã thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ, lời khai của nhân chứng phù hợp với hiện trường, thời điểm xảy ra án mạng. Việc truy tố bị cáo Đồng về tội giết người là đúng người, đúng tội.
Trong khi đó, ông Đồng một mực kêu oan, không đồng ý bản cáo trạng. Trong quá trình điều tra ông Đồng cũng không thừa nhận mình đánh và đẩy ông Ửng xuống giếng. Ông Đồng cho rằng giữa hai người không hề có mâu thuẫn hay cãi cọ gì và cũng không có động cơ để giết ông Ửng.
Ông Đồng nói giữa ông và ông Ửng nhận nhau là anh em kết nghĩa, điều này ai cũng biết. Hôm đó ông đến nhà ông Ửng chơi, sau khi hai người uống rượu thì có đem bộ bài ra chơi với nhau, chơi xong cả hai còn ăn cháo rồi ông Đồng mới ra về. Khi ra về ông còn thấy ông Ửng bế cháu Cường trên tay còn cháu Thảo đu trên cổ ông Ửng.
Tại phiên tòa, hội đồng xét xử cho rằng trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan chức năng đã vi phạm nghiêm trọng Luật tố tụng. Các chứng cứ, lời khai đều mâu thuẫn, không rõ ràng, thiếu cơ sở buộc tội đối với ông Đồng. Các tang chứng, vật chứng không thể hiện việc đã được niêm phong. Việc giám định dấu vân tay cũng không được tiến hành và không có văn bản.
Ngoài ra các cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng trong việc thu thập chứng cứ để buộc tội bị cáo. Do đó hội đồng xét xử đã tuyên ông Nguyễn Văn Đồng vô tội và trả tự do ngay tại tòa.
Hội đồng xét xử cũng yêu cầu các cơ quan liên quan bồi thường mọi tổn thất về vật chất, tinh thần, đồng thời khôi phục danh dự cho ông Đồng theo đúng quy định của pháp luật.
Nhất Nguyên/Tuổi Trẻ

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015

Chúng tôi phải chứng minh như thế nào là không có hành vi mua bán dâm

- Tôi cùng bạn gái 23 tuổi vào khách sạn. Đúng lúc đó thì công an vào kiểm tra. Chúng tôi phải chứng minh như thế nào là chúng tôi không có hành vi mua bán dâm, và sự việc có được giải quyết ngay tại chỗ không?
Khoản 1 và 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm 2003 giải thích hành vi mua bán dâm như sau:
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.”
Như vậy, yếu tố “dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác” trả cho người bán dâm để được giao cấu là cơ sở để xác định việc mua, bán dâm. Để chứng minh bạn không có hành vi mua, bán dâm, bạn cần chứng minh được việc quan hệ giữa hai bên là tự nguyện, không có yếu tố dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
Điểm e Khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA quy định về điều kiện an ninh – trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định:
“e) Cho thuê lưu trú
- Có nội quy của cơ sở kinh doanh lưu trú niêm yết tại nơi dễ thấy.
- Phải ghi đầy đủ các thông tin của khách lưu trú vào sổ trước khi khách vào phòng nghỉ và thông báo lưu trú với cơ quan Công an xã, phường, thị trấn sở tại trước 23 giờ trong ngày. Nếu khách đến lưu trú sau 23 giờ thì vào sổ và thông báo cho cơ quan Công an vào trước 8 giờ sáng ngày hôm sau (kể cả khách nghỉ theo giờ). Trường hợp có nghi vấn liên quan đến an ninh, trật tự phải báo cáo ngay cho Công an xã, phường, thị trấn.
- Cơ sở kinh doanh nếu thông báo lưu trú cho cơ quan Công an qua mạng Internet thì phải lưu trữ đầy đủ thông tin về khách đã lưu trú tại cơ sở để phục vụ công tác quản lý.
- Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.
Trường hợp khách đến lưu trú không có các loại giấy tờ trên thì khi cho khách vào lưu trú, chủ cơ sở phải thông báo ngay cho cơ quan Công an phường, xã, thị trấn.
- Người đến thăm khách lưu trú tại phòng nghỉ phải xuất trình giấy tờ tùy thân tại quầy lễ tân, cơ sở phải có sổ theo dõi và ghi rõ, đầy đủ các thông tin có liên quan.
- Nghiêm cấm việc sử dụng cơ sở làm nơi chứa cấp tội phạm, sử dụng, tàng trữ, mua bán các chất ma túy, đánh bạc, chứa chấp, môi giới mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.”

Như vậy, khi đến nghỉ tại nhà nghỉ, khách sạn, người đến nghỉ phải tuyệt đối tuân thủ quy định trên đây, trong đó có quy định phải xuất trình chứng minh nhân dân hoặc các giấy tờ tùy thân khác.

Ngoại tình có vi phạm pháp luật?

Ngoại tình có vi phạm pháp luật?


Hỏi: Chồng tôi đi lao động tại thành phố khác, xa nhà. Thời gian qua tôi phát hiện chồng mình ngoại tình với một người phụ nữ làm chung và còn chung sống với cô ta như vợ chồng. Vậy theo quy định của pháp luật, hai người này có bị xử lý gì không?

Ngoại tình có vi phạm pháp luật?


Pháp luật không có quy định về việc xử phạt hành chính/hình sự khi người vợ/chồng có hành vi ngoại tình mà chỉ có quy định về việc "chung sống với người khác như vợ chồng".

Theo Luật Hôn nhân & Gia đình 2014, “người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ” là hành vi bị cấm. 

Do đó, chồng bạn chung sống với người phụ nữ khác khi hai vợ chồng bạn chưa ly hôn là hành vi vi phạm pháp luật.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của chồng bạn và người phụ nữ kia mà họ có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Ngoại tình có vi phạm pháp luật?

Các hành vi như:
  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
  • Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
  • Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.

Ngoại tình có vi phạm pháp luật?

Ngoài ra hành vi chung sống như vợ chồng với người đã có vợ chồng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 147 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) như sau:

“Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm…”.
  • Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly
    hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát...
  • Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó
*Theo quy định tại mục 3 Thông tư số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC

Nguồn: VNExpress

Các bên tham gia tố tụng hình sự

Các bên tham gia tố tụng hình sự


Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự theo những tội danh hình sự được quy định trong Bộ Luật Hình Sự 1999. Quy trình tố tụng hình sự phải được tuân thủ nghiêm ngặt qua những điều khoản tại Bộ luật tố tụng hình sự 19/2003/QH11.

Sau đây Ezlaw sẽ giới thiệu tới các bạn một số khái niệm cơ bản về những bên tham gia trong quy trình tố tụng hình sự.

1. Cơ quan tiến hành tố tụng


cơ quan tham gia tố tụng hình sự

Những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan này có thể kể đến là:
  • Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên;
  • Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;
  • Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án.
nghĩa vụ cơ quan tham gia tố tụng hình sự

Có thể hiểu đơn giản những cơ quan này đại diện cho Nhà nước thực hiện quy trình như sau:


Cơ quan điều tra sẽ lập hồ sơ vụ án, điều tra hành vi phạm pháp, tìm chứng cứ, nhân chứng, hỏi cung bị can và khởi tố. Sau đó Viện kiểm sát sẽ kiểm tra quá trình điều tra và chứng cứ, việc khởi tố bị can và "thay mặt nhà nước" đưa ra các chứng cứ này ra trước cơ quan xét xử là Toà án để chứng minh rằng bị cáo đã vi phạm những tội danh như đã được khởi tố. Thẩm phán tại toà sẽ xem xét chứng cứ và lập luận từ Viện kiểm sát cũng như người bào chữa cho bị cáo để đưa ra quyết định bị cáo có phạm những tội danh như đã khởi tố hay không và hình phạt tương ứng.

Trong đó, Chánh án Toà án là người đứng đầu Toà án và có quyền đưa ra quyết định phân công Thẩm phán xét xử một vụ án hình sự, thay đổi Thẩm phán, kiểm tra quyết định của Thẩm phán, ra quyết định thi hành án hình sự hay xoá án tích ..v..v..

Có thể hiểu nôm na nếu Toà án là một công ty thì Thẩm phán là giám đốc, Phó Chánh án là phó giám đốc, Chánh án là tổng giám đốc.

Ngoài ra còn có Thư ký Toà án với nhiệm vụ phổ biến nội quy toà, báo cáo với hội đồng xét xử (các thẩm phán) danh sách những người được triệu tập tới toà và ghi biên bản phiên toà.

2. Người tham gia tố tụng


bên tham gia tố tụng hình sự

Những người tham gia chính trong tố tụng hình sự là:
  • Bị cáo - người bị cáo buộc những tội danh trong khởi tố;
  • Người bị hại - ví dụ như nạn nhân bị cướp hoặc bị xâm phạm cơ thể;
  • Người bào chữa - có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc bào chữa viên nhân dân do cơ quan nhà nước chỉ định; và 
  • Người làm chứng - tức nhân chứng của cả bị cáo lẫn công tố viên cung cấp chứng cứ, lời khai có liên quan tới vụ án.


bên tham gia tố tụng hình sự

Tuỳ từng vụ án mà các bên như trên cũng có thể tham gia tố tụng hình sự.
  • Nguyên đơn dân sự là bên bị thiệt hại do hành vi phạm pháp gây ra và có yêu cầu bồi thường bằng văn bản tới toà. 
  • Bị đơn dân sự không phải là người gây ra thiệt hại cho nguyên đơn dân sự hoặc người bị hại mà thiệt hại đó do người phạm tội gây ra, nhưng theo quy định của pháp luật thì họ lại phải bồi thường thay cho bị cáo.
Ví dụ:

Anh A (14 tuổi) lấy xe máy của công ty B đi giật dây chuyền của chị C sau đó bán xe máy đó lại cho D. Trong trường hợp này:
  • A sẽ là bị cáo;
  • công ty B là nguyên đơn dân sự (bị thiệt hại chiếc xe máy);
  • bố mẹ của A là bị đơn dân sự (cha mẹ của bị cáo chưa thành niên);
  • chị C là người bị hại; và 
  • D là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án (vì là người sở hữu chiếc xe máy bị lấy cắp).

Ngoài ra, nếu cần thiết, người giám định với khả năng chuyên môn hoặc kiến thức cao ở các lĩnh vực khác nhau và người phiên dịch tiếng nước ngoài hoặc cho người câm điếc cũng có thể tham gia tố tụng hình sự để trợ giúp Toà án trong việc xét xử.
Nguồn: Ezlaw

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2015

Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không vi phạm pháp luật

Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không vi phạm pháp luật

Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không phạm pháp

Các bạn hãy tham khảo những câu hỏi trắc nghiệm dưới đây trước khi quan hệ tình dục, để đảm bảo hành vi giao cấu của mình không vi phạm pháp luật.

Các tội danh này được quy định tại các điều 111 tới 116 Bộ luật Hình sự 1999 với các mức phạt tù từ 6 tháng tới 20 năm, thậm chí chung thân hoặc tử hình!

Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không phạm pháp
Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không phạm pháp
Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không phạm pháp
Những câu cần hỏi để quan hệ tình dục không phạm pháp