Công ty Luật Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 334 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 0911666884- 0924.488.884.

Công ty Đấu giá Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 07 Khúc Hạo, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng

Kim Trọng Hùng Group Kính chào Các bạn

Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng. Website:luatkimtronghung.com.

Luật sư Vũ Trọng Kim-CT Hội cựu TNXP

Ủy viên trung ương ĐCS khóa VIII, IX, X, XI. Đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XIII, XIV.

Luật sư Nguyễn Cao Hùng-Giảng viên thỉnh giảng Luật Đầu tư

Tác giả sách: 200 câu hỏi đáp về Khiếu nại, tố cáo. Đồng tác giả sách: Bình luận KH BLTTHS 2015-XNB CAND

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

Việt Nam phát triển kinh tế internet vượt bậc trong năm 2018


Việt Nam phát triển kinh tế internet vượt bậc 

Việt Nam hiện có nền kinh tế Internet phát triển nhất tính trên giá trị hàng hóa mua bán trong năm 2018, tương đương 4% GDP quốc gia, theo một nghiên cứu mà hai công ty Google và Temasek công bố ngày 19-11.
Singapore đứng thứ hai với 3,2% GDP. Tuy nhiên, Indonesia là nước có tốc độ phát triển nhanh nhất và dự kiến đạt 100 tỉ USD vào năm 2025.

Kết quả hình ảnh cho kinh tế internet

Công nghệ đang tạo ra những cơ hội và thách thức tại Đông Nam Á. Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam là đối tượng chính của nghiên cứu này. Theo đó, nền kinh tế Internet tại Đông Nam Á dự kiến vượt 240 tỉ USD và tạo 1,7 triệu việc làm toàn thời gian vào năm 2025, gấp 3 lần so với năm 2018. Ngoài ra, số người làm việc bán thời gian, hoặc tự do trong nền kinh tế Internet cũng tăng từ 4 triệu hiện nay lên 12 triệu người. Trong tổng số đó bao gồm 200.000 công việc kỹ năng cao trong các lĩnh vực như phần mềm, tiếp thị số, khoa học dữ liệu... có mức lương thường cao hơn đến 5 lần lương trung bình tại khu vực. Đông Nam Á cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào kinh tế Internet, với tổng nguồn vốn đã tăng thêm 24 tỉ USD trong ba năm qua và ước tính thu hút 40-50 tỉ USD đầu tư vào năm 2025 để phát triển ngành kinh tế tiềm năng này.

Thời gian qua, dòng đầu tư chủ yếu rót vào các dịch vụ gọi xe hay thương mại điện tử, chiếm khoảng 20 tỉ USD. Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất của kinh tế Internet với tốc độ tăng trưởng 100% mỗi năm, hơn 120 triệu người mua và dự kiến đạt 100 tỉ USD trong vài năm tới. Trong khi đó, lĩnh vực gọi xe, bao gồm vận chuyển và giao hàng, sẽ đạt 7,7 tỉ USD vào cuối năm nay và tăng gấp 5 lần vào năm 2025. Ngoài ra, các công ty khởi nghiệp tại khu vực cũng bắt đầu nhận được nhiều đầu tư hơn trong các giai đoạn ban đầu. Khu vực đã chứng kiến sự phát triển kinh ngạc của những công ty khởi nghiệp như Grab, Go-Jek, Lazada. Đầu tư cũng rót vào các mảng khác của kinh tế Internet như kỹ thuật tài chính, giáo dục, chăm sóc y tế...


Nhưng Đông Nam Á và cũng như nhiều nơi trên thế giới đang cùng đối diện với những thách thức từ kinh tế số là nâng cấp kỹ năng của lực lượng lao động và thích nghi với sự thay đổi chóng mặt của công nghệ. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), bên cạnh sự cạnh tranh của tự động hóa, người lao động tại khu vực đối mặt với thách thức phải được đào tạo cho các công việc mới, trong khi kỹ năng của lao động trong lĩnh vực kỹ thuật số tại Đông Nam Á "chưa đủ tốt để nắm bắt cơ hội".

"Để chuẩn bị cho người dân cạnh tranh được trong nền kinh tế kiến thức, cần một mô hình giáo dục - đào tạo và một mô hình học tập suốt đời - chuyên gia Jan Thomas của Đại học Massey, New Zealand, nói - Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những công việc và ngành công nghiệp mới, điều này đòi hỏi sự tiếp nhận công nghệ và nâng cấp kỹ năng không ngừng nghỉ để bắt kịp sự thay đổi".

Hàng loạt "ông lớn" công nghệ như Google, Microsoft, Cisco Systems... cam kết sẽ giúp đào tạo 20 triệu người tại Đông Nam Á vào năm 2020. Đây là một phần trong sáng kiến Tầm nhìn kỹ năng số ASEAN 2020 được WEF công bố ngày 19-11. "Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đang diễn ra ngày càng nhanh và thay đổi những kỹ năng mà người lao động cần để làm việc trong tương lai" - lãnh đạo WEF phụ trách châu Á - Thái Bình Dương Justin Wood nói.


Đông Nam Á sử dụng Internet nhiều nhất thế giới

Kinh tế Internet tăng trưởng một phần nhờ tỉ lệ truy cập Internet cao tại Đông Nam Á. Theo nghiên cứu của Google - Temasek, hiện có khoảng 350 triệu người dùng Internet trên khắp Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, tăng thêm 90 triệu so với năm 2015, đưa Đông Nam Á trở thành khu vực sử dụng Internet nhiều nhất thế giới. 90% người truy cập mạng tại khu vực chủ yếu bằng điện thoại thông minh, nhờ sự phổ biến của điện thoại và giá cước dữ liệu rẻ hơn.


Việt Nam phải cạnh tranh với chính mình

"Giao dịch điện tử là những chỉ dấu rõ ràng thể hiện tiềm năng thực sự của một nền kinh tế. Theo tôi, mô hình phát triển thương mại điện tử của Trung Quốc là hình mẫu tốt cho Việt Nam noi theo. Trung Quốc có hai kênh thanh toán thương mại lớn là WePay và AliPay với tổng giao dịch lên đến 6.000 tỉ USD. Tuy nhiên, Việt Nam không phải cạnh tranh với Trung Quốc, nên các bạn không cần phải lo lắng. Tôi nghĩ Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế số. Tôi quan sát thấy nhiều trường đại học ở Việt Nam có chương trình đào tạo công nghệ khá tốt cho sinh viên.

Những gì Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực là xây dựng năng lực cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, giới trẻ phải tự quyết định vận mệnh của riêng mình. Các bạn trẻ phải chăm chỉ và chấp nhận mạo hiểm. Một điều nữa, trong thế giới số và hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay, kỹ năng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, đóng vai trò vô cùng quan trọng. Ví dụ, nhiều công ty thương mại điện tử Trung Quốc đã thiết lập các website tiếng Anh để tiếp cận thị trường nhiều nước, trong đó có các quốc gia Đông Nam Á. Tôi cho rằng thành công của Việt Nam không đến từ cạnh tranh với các hàng xóm, mà là cạnh tranh với chính bản thân mình".

Theo Anh Eugene Ho ( Công ty công nghệ SAP, Singapore)

Nhà mạng Mỹ CharterCommunications phải bồi thường vì đường truyền internet chậm


Nhà mạng Mỹ CharterCommunications phải bồi thường vì đường truyền internet chậm

Trang The Hill đưa tin ngày 19/12/2018, công ty CharterCommunications bị cáo buộc gian dối về tốc độ đường truyền internet với khách hàng. Văn phòng Tổng chưởng lý bang New York đã khởi kiện Charter Communication vào năm ngoái buộc công ty này phải trả tổng số tiền là 174,2 triệu USD. Trong đó, 62,5 triệu USD sẽ được dùng để bồi thường cho 700.000 người dùng của hãng. Mỗi người sẽ nhận được khoản đền bù 75-150 USD. Công ty này cũng miễn phí gói dịch vụ cao cấp cho 2,2 triệu người dùng tại New York, tổng giá trị lên đến 110 triệu USD.




Hồ sơ được Tòa án Tối cao Mỹ tiếp nhận bao gồm email giữa các giám đốc của công ty trên. Nội dung của chúng cho thấy lãnh đạo công ty có nắm bắt về vấn đề của tốc độ đường truyền từ năm 2012. Tổng chưởng lý Barbara Underwood đã gửi một thông điệp, được đánh giá khá rõ ràng, cho doanh nghiệp này trên Twitter. Bà viết: "Thực hiện lời hứa của bạn, hoặc trả giá". Văn phòng của bà Underwood cho biết đây là khoản bồi thường lớn nhất tại Mỹ do một nhà cung cấp dịch vụ internet trả.

Charter Communication mua lại hãng cáp Time Warner Cable và đổi tên thành Spectrum Cable năm 2016. Công ty này đã đồng ý thực hiện nhiều thay đổi để đáp ứng thỏa thuận với bang, trong đó bao gồm đầu tư cho hệ thống mạng, thay bộ điều giải (modem) và cải tiến bộ định tuyến (router) WiFi. Trong một thông báo gửi Daily News, người phát ngôn của Charter, John Bonomo nói công ty của ông hài lòng với sự dàn xếp này.

CÔNG NGHỆ AI-DEEP LEARNING (HỌC SÂU) VÀ NHÀ PHÁT MINH LÊ VIẾT QUỐC


CÔNG NGHỆ AI-DEEP LEARNING (HỌC SÂU) VÀ NHÀ PHÁT MINH LÊ VIẾT QUỐC

Lê Viết Quốc khiến Việt Nam tự hào bởi anh chính là một nhân vật quan trọng với Google được biết đến với cái tên "Google Brain" với mục đích là khai phá về "Học sâu" (Deep Learning) - nhà khoa học AI lừng danh trong giới công nghệ. Lê Viết Quốc sinh năm 1982 tại một ngôi làng nhỏ không có điện ở Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Từ cậu học trò nghèo đến "quái kiệt" khiến máy móc biết suy tư. 
Năm 2014, tạp chí MIT Technology Review vinh danh Lê Viết Quốc là một trong 35 nhà phát minh dưới 35 tuổi xuất sắc nhất thế giới vì mục tiêu "giúp cho phần mềm đủ thông minh để hỗ trợ mọi người khiến cuộc sống hàng ngày của họ trở nên dễ chịu".




Năm 14 tuổi, Quốc quyết định rằng, phát minh hữu ích nhất cho nhân loại có lẽ là một cái máy đủ thông minh để có thể tự tạo ra các sáng chế - một ý tưởng siêu việt đến từ thế giới tương lai. Nhưng chính ước mơ cháy bỏng của tuổi thơ đó đã đưa Viết Quốc đến với con đường trở thành một người tiên phong nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo. Nhờ thành tích học tập xuất sắc, Viết Quốc được trao học bổng toàn phần của Chính phủ Australia để theo học đại học tại Đại học Quốc gia Australia.

Năm 2007, Viết Quốc sang Đức làm nghiên cứu với viện Max Planck Biological Cybernetics. Cùng thời gian đó, anh nộp hồ sơ làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Stanford và được chấp nhận. Ở Stanford, Viết Quốc đã tìm ra được cách làm thế nào để tăng tốc độ xử lý dữ liệu với độ lớn gấp hàng ngàn lần bằng việc xây dựng các mạng neurone thần kinh mô phỏng.

Năm 2011, Lê Viết Quốc và nghiên cứu sinh Google Jeff Dean, nhà nghiên cứu Greg Corrado làm việc tại Google cùng cố vấn Tiến sĩ Andrew Ng - hiện là Giám đốc nghiên cứu của Baidu, hãng công nghệ tìm kiếm khổng lồ tại Trung Quốc. 4 nhà khoa học tài năng đã sáng lập ra Google Brain với mục đích là khai phá về "Học sâu" (Deep Learning) trên cơ sở khối lượng dữ liệu khổng lồ của Google. Deep Learning là một thuật toán có thể giúp giải quyết hàng loạt vấn đề như giáo dục, biến đổi khí hậu... Ví dụ, sử dụng các cảm biến từ xa, dữ liệu môi trường trên thế giới sẽ được theo dõi và ghi lại.

Năm 2012, Viết Quốc công bố một nghiên cứu về Deep Learning. Theo đó, anh đã phát triển một mô hình mạng lưới neurone chuyên sâu có thể nhận ra mèo dựa trên 10 triệu hình ảnh kỹ thuật số từ Youtube, cũng như hơn 3.000 bức ảnh trong tập dữ liệu ImageNet. Khi kết quả nghiên cứu của họ được công bố, nó giống như một công tắc bật nút khởi động cho một cuộc chạy đua quyết liệt ở Facebook, Microsoft và các công ty khác trong quá trình đầu tư vào nghiên cứu công nghệ "học sâu" Deep Learning.

Kể từ đó, nhà khoa học trẻ tuổi này đã giúp đỡ xây dựng các hệ thống Google nhận dạng các từ nói trên điện thoại Android, và tự động đánh dấu (tag) ảnh của bạn trên web, cả hai kỹ thuật đều được hỗ trợ từ công nghệ Deep Learning.

Sau khi rời Stanford vào năm 2013, Viết Quốc chính thức đầu quân cho Google với tư cách một nhà nghiên cứu. Anh sớm đạt được những đột phá ấn tượng trước khi đề xuất và hoàn thiện trình tự chuỗi cùng các nhà nghiên cứu khác ở Google.

Năm 2016, Viết Quốc và một nhà nghiên cứu khác của Google – Tiến sĩ Barret Zoph đã đề xuất hệ thống tìm kiếm kiến ​​trúc neurone. Phương thức mới này có thể giúp các nhà nghiên cứu thiết kế một kiến ​​trúc mạng phù hợp với cấu trúc nhân tạo chính xác nhất. Dựa trên những thành công trong nghiên cứu của Viết Quốc, Google đã công bố hệ thống dịch máy neurone (Neural Machine Translation System) sử dụng trí tuệ nhân tạo AI để tạo ra các bản dịch tốt hơn và tự nhiên hơn.


Quốc đã từng nói "Tôi mong muốn tạo ra được một cỗ máy có thể nhìn, nghe và hiểu được chúng ta", nhưng cũng thừa nhận rằng điều đó còn lâu nữa mới xảy ra. Mấy ai biết được rằng chàng trai có dáng người mảnh khảnh, đeo kính cận dày cộp và khá lặng lẽ trong đám đông ấy chính là người đứng sau sự "thần kỳ" của những dự án đình đám về công nghệ trí tuệ nhân tạo như Google Translate, Google Search. Ở đế chế Google, Lê Viết Quốc được giao trọng trách quản lý dự án của Google Brain, phụ trách một nhóm nghiên cứu khoảng 25 người.

Như tên gọi, Google Brain đúng là "bộ não của Google", bộ phận chịu trách nhiệm nghiên cứu khoảng 5-6 dự án mang tính cách mạng trong lĩnh vực công nghệ tiên tiến nhất của nhân loại hiện nay. Nhóm của Viết Quốc tập trung vào việc phát triển và hoàn thiện công nghệ nhận dạng giọng nói, hình ảnh và dịch thuật.

Đối mặt với những thuật ngữ và kiến thức hàn lâm, Viết Quốc có cách diễn giải dễ hiểu, khiến cho những người ngoại đạo cũng có thể hiểu được vài nguyên lý cơ bản mà công nghệ AI đang vận hành. Anh chính là người đã đóng góp đáng kể trong việc phát triển Google Translate (công cụ dịch của Google) được biết đến là sản phẩm tiện ích khó tin cho người dùng.

Ước mơ xây dựng kỷ nguyên công nghệ AI tại Việt Nam

Phụ trách những dự án công nghệ mang tính cách mạng nhân loại, nhưng Viết Quốc lại có cuộc sống bình dị và cân bằng trái ngược với suy nghĩ phức tạp của nhiều người. Một ngày của Viết Quốc ở thế giới Google bắt đầu từ khoảng 9-10h sáng, và kết thúc lúc 6-7h chiều. Cuối tuần,Viết Quốc tham gia đội bóng đá ở Silicon Valley hoặc tham gia dã ngoại với bạn bè. 

Tại thung lũng Silicon, hiện có khoảng hơn 100 kỹ sư người Việt đang làm việc và họ đã tạo thành một cộng đồng nhỏ tương trợ lẫn nhau. Tuy nhiên, trăn trở lớn nhất với Lê Viết Quốc đó chính là một tương lai công nghệ trên chính quê hương của mình. Hơn nữa, ngành công nghiệp AI đòi hỏi trung bình từ 1 triệu nhân lực bao gồm kỹ sư, nhà nghiên cứu, nhà phát triển,... Trong khi đó tại Việt Nam hiện nay chỉ có khoảng 10.000 nhân lực sẵn sàng đáp ứng yêu cầu mỗi năm.

Người hùng Google Lê Viết Quốc từng nhận định rằng Việt Nam hiện có nhiều tiềm năng trong phát triển CNTT cụ thể là công nghệ AI - yếu tố được coi là "trái tim" của cuộc cách mạng công nghệ 4.0.

Song Việt Nam đang thiếu nhiều "vật liệu" để xây dựng. Muốn phát triển, chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam nên đầu tư mạnh vào 3 mảng chính đó là giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nguồn dữ liệu mở, và tạo ra mối liên kết giữa các trường đại học Việt Nam với nguồn trí thức, cộng đồng thế giới.

Đầu năm 2017, Lê Viết Quốc nhận lời tham gia Hội đồng tín thác Đại học Fulbright Việt Nam, trường đại học độc lập, phi lợi nhuận, được thành lập với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của cả chính phủ Mỹ và Việt Nam, với kì vọng Việt Nam sẽ có trường đại học đẳng cấp quốc tế. Quốc kể, lý do thôi thúc anh quan tâm tới Fulbright xuất phát từ "tình yêu dành cho Việt Nam".

"Mỗi lần trở về thấy đất nước lại phát triển thêm một chút, mình cũng muốn đóng góp một chút gì đó. Mình tin là, Việt Nam muốn phát triển thì trước tiên phải có ít nhất một trường đại học tốt. Khi có một trường đại học tốt thì mới có con người giỏi để đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Những người ở Đại học Fulbright mà mình tiếp xúc khiến mình cảm nhận được tâm huyết, tham vọng và cả cam kết của họ muốn góp phần thay đổi tích cực hệ thống giáo dục này. Vì thế, mình mong muốn được góp sức mình trong sứ mệnh đó", Viết Quốc tâm sự. "Học AI giống như lái máy bay vậy. Bạn có thể đọc sách về lái máy bay nhưng không thể lên máy bay mà lái được ngay. Bạn phải tập lái máy bay hàng nghìn giờ mới có thể tự tin điều khiển máy bay", Viết Quốc ví von.

Quốc kỳ vọng sẽ cùng các cộng sự ở Fulbright xây dựng một chương trình đào tạo khoa học máy tính, trong đó có AI, ứng dụng những sáng tạo mới nhất của thế giới.

Đầu năm 2018, Google đã ra mắt AutoML Vision cũng dựa trên những nguyên lý mà Lê Viết Quốc đặt nền móng.

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2018

Câu chuyện pháp lý: “Thổ cư” và “đất ở”


Câu chuyện pháp lý: “Thổ cư” và “đất ở”

Lâu nay người ta ai cũng hiểu "thổ cư" là "đất ở". Nói "thổ cư" là nói theo âm Hán – Việt, còn nói "đất ở" là nói theo âm thuần Việt. Luật đất đai được ban hành và sửa đổi, bổ sung nhiều lần, từ năm 1987 đến nay, đều dùng khái niệm "đất ở" chứ không dùng khái niệm "thổ cư". Đó là cách mà các nhà làm luật ưu tiên chọn khái niệm thuần Việt trong Luật đất đai, chứ hoàn toàn không có cơ sở nào để nói rằng "thổ cư" không phải là "đất ở".

Sẽ không có gì để bàn, nếu như không có chuyện nhiều người dân có thửa đất, trên đó có ao, chuồng, cây lâu năm cùng với nhà ở và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là đất "thổ cư" rồi, mà khi bị thu hồi thì lại được tính đền bù theo ... giá đất vườn. Đã có không ít trường hợp người dân phải lao đao vì chuyện "thổ cư" không được coi là "đất ở", gây thiệt hại không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ trên thửa đất mà họ đã gắn bó từ bao đời do ông cha để lại.
Có lẽ đây cũng là chủ đề "nóng" đang thu hút được sự chú ý của nhiều người, và chính nó cũng đang tạo ra những "điểm nóng" ở nhiều nơi, khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, làm đường giao thông, làm công trình công cộng...
Câu hỏi đặt ra là tại sao những người có đất bị thu hồi luôn muốn khẳng định đất "thổ cư" là "đất ở", còn phía cơ quan thực hiện việc thu hồi đất lại luôn muốn coi đất "thổ cư" là "đất vườn"?! Bản chất của vấn đề là ở chổ, nếu coi đất "thổ cư" là "đất ở" thì giá đền bù cho người có đất bị thu hồi sẽ cao hơn khá nhiều so với việc xác định đất "thổ cư" là ... đất vườn. Ai sẽ là người được hưởng lợi chênh lệch giá giữa đất "thổ cư" bị chuyển thành "đất vườn" so với "đất ở", vấn đề này xin để mọi người suy ngẫm. Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là theo Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ, làm thế nào để mọi người chia sẻ hai khái niệm "thổ cư" và "đất ở" có sự khác nhau cơ bản hay không?
Theo quy định của Luật đất đai hiện hành thì "đất ở" được hiểu là đất dùng để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ cuộc sống. Ngoài ra, ngay cả trường hợp "đất vườn, ao" nhưng có kèm theo một số điều kiện do Luật đất đai quy định, mà đáp ứng được, thì cũng được coi là "đất ở". Ví dụ, các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 103 Luật đất đai 2013: "Đất vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân được xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất đang có nhà ở". Nêu ví dụ này để thấy rằng, quan điểm chính thức của Nhà nước hiện nay về khái niệm "đất ở" cũng được hiểu theo cách khá "mở". Tức là, trong những điều kiện nhất định, thì một diện tích đất cụ thể, dù có công năng sử dụng là để làm vườn hay làm ao vẫn được coi là "đất ở". Quy định như vậy, theo chúng tôi nghĩ, đó cũng là cách để Nhà nước bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân theo luật. Tinh thần của Luật đất đai rất rõ như vậy, nhưng rất tiếc, trong nhiều trường hợp người dân đã có Giấy chứng quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) và trên đó có ghi rõ là "đất thổ cư, thời hạn sử dụng lâu dài", mà vẫn luôn bị "Người có thẩm quyền thu hồi đất" coi là... "đất vườn" ?!
Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi xin nêu kết quả giải quyết một vụ kiện hành chính đã qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, như sau:
Tóm tắt nội dung vụ kiện:
Theo Giấy CNQSDĐ của UBND huyện T vào 10/1997 đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn A 1.486 m2 đất, có ghi rõ mục đích sử dụng là "đất thổ cư, thời hạn sử dụng lâu dài". Trong quá trình sử dụng đất ông Nguyễn Văn A đã chuyển nhượng một phần diện tích đất nói trên cho người khác. Khi có tuyến đường đi qua, UBND huyện T đã ra các quyết định thu hồi của ông A 183m2 trong phần diện tích đất còn lại của ông và bồi thường, hỗ trợ cho ông theo giá đất trồng cây lâu năm (đất vườn). Không đồng ý với các quyết định của UBND huyện T, ông Nguyễn văn A đã khởi kiện hành chính yêu cầu Tòa án hủy các quyết định trên của UBND huyện T để thực hiện lại thủ tục thu hồi và bồi thường cho ông theo giá đất ở.
Về phía UBND huyện T thì lập luận rằng: Theo Sổ đăng ký ruộng đất (Sổ mục kê 5b- hồ sơ 64/CP năm 1996) thì thửa đất của ông Nguyễn Văn A là thửa số ..., tờ bản đồ số ..., diện tích 1.486m2; trong đó có 200m2 đất ở và 1.286m2 đất vườn tạp, nên nay bồi thường cho ông A 183m2 theo giá đất vườn là hợp lý. Và tại Tòa phúc thẩm, đại diện UBND huyện T cũng nói rằng UBND huyện T đã cấp Giấy CNQSDĐ cho ông A theo loại đất thổ cư là không đúng qui định của pháp luật về đất đai.
Nội dung vụ kiện có thể tóm tắt như trên. TAND cấp tỉnh xử sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông A, hủy các quyết định về thu hồi đất và bồi thường của UBND huyện T, buộc UBND huyện T ban hành quyết định lại cho phù hợp với pháp luật về đất đai. UBND huyện T chống án yêu cầu TAND cấp cao xử lại theo thủ tục phúc thẩm. TAND cấp cao đã y án sơ thẩm với các lập luận như sau:
1. Theo qui định tại khoản 2 Điều 45 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai (2003), qui đinh: "Trường hợp đất ở có vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư được sử dụng trước ngày 18/12/1980 mà trong hồ sơ địa chính hoặc các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai có ghi nhận rõ ranh giới thửa đất ở (hoặc thổ cư) thì toàn bộ diện tích đất đó được xác định là đất ở theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của Luật Đất đai". Theo qui định trên, ông A cư trú trước 1980 và được cấp Giấy CNQSDĐ có ghi rõ loại đất là "thổ cư" nên phải được công nhận là đất ở.
2. Hộ ông Nguyễn Văn A được UBND huyện T cấp Giấy CNQSDĐ vào ngày 31/10/1997, có ghi rõ là "đất thổ cư, thời hạn sử dụng lâu dài" là phù hợp với qui định tại Điều103 Luật đất đai 2013 và điểm a khoản 5 Điều 24 Nghị định số 43/2014 của Chính phủ: "Hộ gia đình , cá nhân sử dụng đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở đã được cấp giấy chứng nhận trước ngày 01/7/2014 thì diện tích đất ở được xác định là diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp". Như vậy, Giấy CNQSDĐ của UBND huyện T đã cấp cho ông A 1.486 m2 "đất thổ cư, sử dụng lâu dài" thì phải được hiểu là toàn bộ diện tích đất ghi trên Giấy CNQSDĐ đã cấp cho ông A là đất ở. Do đó, việc UBND huyện T thu hồi của ông Nguyễn Văn A 183m2 đất và bồi thường theo giá đất vườn là không đúng pháp luật về đất đai, gây thiệt hại cho ông A.
3. Căn cứ Điều 10 (Luật đất đai năm 2013), qui định về phân loại đất; Điều Điều 124 qui định về đất sử dụng có thời hạn và 125 qui định về đất sử dụng ổn định lâu dài, thì đất vườn thuộc nhóm đất nông nghiệp và chỉ được Nhà nước công nhận QSDĐ có thời hạn sử dụng tối đa là 50 năm; trong khi đó chỉ có đất ở qui định tại Điều 125 Luật đất đai 2013 là sử dụng lâu dài. Vậy thì, UBND huyện T đã công nhận QSDĐ cho ông A là "đất thổ cư, sử dụng lâu dài" thì phải coi là đất ở chứ không thể là "đất vườn" được.
Với 03 luận cứ xác đáng nêu trên, cả 02 cấp Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều nhận định 183m2 đất của ông Nguyễn Văn A bị UBND huyện T thu hồi phải được xác định là đất ở, nên đã tuyên hủy các quyết định của UBND huyện T, buộc UBND huyện này phải ban hành lại quyết định thu hồi và quyết định bồi thường về đất cho ông A theo đúng qui định của pháp luật.
Những vấn đề cần suy ngẫm:
Nhiều quy định của pháp luật về đất đai hiện nay còn có nhiều vấn đề có cách hiểu khác nhau, nên việc áp dụng như thế nào cho đúng và thống nhất là vấn đề rất khó. Do vậy, nếu thu hồi mà xác định không đúng loại đất để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân sẽ dẫn đến việc gây thiệt hại về quyền và lợi ích chính đáng của họ, đồng thời cũng là nguyên nhân gây bức xúc, khiếu kiện kéo dài.
Vụ việc được nêu trên đây là một vụ án có thật, chúng tôi không rõ đến thời điểm này ông Nguyễn Văn A đã được bảo đảm các quyền lợi chính đáng của mình hay chưa. Vấn đề này xin dành cho cơ quan có thẩm quyền trong việc giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động tố tụng. Thiết nghĩ, khi đã có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật rồi, UBND huyện T cần sớm thực hiện việc sửa sai, kiểm điểm trách nhiệm bộ phận tham mưu và kịp thời khắc phục những thiệt hại mà mình đã gây ra cho người dân mới là vấn đề cần quan tâm.
Chúng tôi nêu lại vụ việc cụ thể này với mục đích không có gì khác hơn là rất mong những "Người có thẩm quyền thu hồi đất", nếu gặp phải trường hợp tương tự thì nên coi đây như là một "án lệ" mà áp dụng để tránh việc tiếp tục gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Đó cũng là cách để không làm phát sinh thêm những vụ việc khiếu kiện kéo dài gây bất ổn cho xã hội.
Cũng qua vụ án này, chúng tôi đề nghị Tòa án Nhân dân tối cao nghiên cứu đưa vào "kho" án lệ của mình để các tòa án địa phương vận dụng thống nhất khi gặp trường hợp tương tự./.

Lê Hằng Vân & Nguyễn Kỳ Sanh

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2018

06 PHƯƠNG PHÁP TIẾP THỊ SỐ Ở VIỆT NAM NĂM 2018

 06 PHƯƠNG PHÁP TIẾP THỊ SỐ Ở VIỆT NAM NĂM 2018

Theo số liệu của We Are Social năm 2017 trong khi Việt Nam có hơn 50 triệu người dùng truy cập internet thì trong đó có hơn 47 triệu người dùng cũng đồng thời truy cập internet bằng các thiết bị di động. Theo số liệu từ Facebook đến tháng 03/2017 thì Việt Nam có hơn 50 triệu người dùng internet, trong đó có 42 triệu người có tài khoản facebook (chiếm 85% người dùng internet) mà trong đó 93% người dùng thường xuyên truy cập mạng xã hội bằng điện thoại di động.

Trong khi đó, báo cáo từ Google và comScore thì cho thấy rằng: có hơn 40 triệu người dùng Việt Nam truy cập internet bằng điện thoại di động & dự kiến đến 2020 số lượng này là hơn 60 triệu người, do phí 3G của Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, người dùng Việt Nam chính là những người xem Youtube nhiều nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, không phải là Nhật, Hàn, Sing, Đài … mà là người dùng Việt Nam với trung bình một người dùng 45 phút xem youtube mỗi ngày.


Vậy việc xem trọng các hình thức tiếp thị trên các thiết bị di động (Mobile First) không còn là xu hướng nữa, mà đó là một việc làm bắt buộc mà khi nghĩ tới digital thì buộc phải nghĩ đến mobile kèm theo. Sự tăng trưởng này cũng góp phần lớn vào việc thay đổi hành vi người dùng internet hiện nay & trên hết là tác nhân tạo ra một số xu hướng mới trong các năm tiếp theo. Cuộc cách mạng số đang mở ra cho doanh nghiệp những cơ hội mới để tiếp cận khách hàng với chi phí rẻ hơn, dễ dàng thực hiện các chiến dịch digital marketing hấp dẫn, tương tác thời gian thực với khách hàng, nhanh chóng và hiệu quả cùng một lúc. 6 phương pháp tiếp thị số ở Việt Nam như sau:

1. ĐA KÊNH LIÊN KẾT (OMNICHANNEL):
Omnichannel là thuật các bên về e-commerce tại Việt Nam lẫn những bên cung cấp khác như Magento, Smartosc,.. đều ra sức thực hiện các hội thảo educated thị trường về Omnichannel (hay còn gọi là Online to Offline). Năm 2018 cả Google lẫn Facebook cũng sẽ cung cấp những giải pháp chi tiết về cách họ theo dõi lượt truy cập, hành trình của người dùng vào cửa hàng từ online tới offline (O2O), để các doanh nghiệp hiểu cách thức phân bổ này hoạt động và bắt đầu sử dụng nó như một KPI quan trọng trong tiếp thị trực tuyến.

Omnichannel là Đa kênh Liên kết, khác với MultiChannel, giúp phối hợp các kênh bán hàng cả online lẫn offline một cách thống nhất, giúp tăng độ phủ sóng thương hiệu và giúp doanh nghiệp quan tâm đến khách hàng nhiều hơn, tạo cho khách hàng sự trải nghiệm đồng nhất ở tất cả các kênh bán hàng, từ đó không chỉ giúp nâng cao giá trị nhãn hiệu mà còn thúc đẩy doanh số, tiết kiệm chi phí.
Hiện nay 80% doanh thu bán lẻ của Việt Nam đang đến từ các cửa hàng bán lẻ, nhưng tỷ lệ doanh thu từ thương mại điện tử đang có xu hướng tăng nhanh do thói quen mua sắm của người tiêu dùng thay đổi, việc này phần lớn được tác động bởi công nghệ ngày càng phát triển. Do đó, nếu phối hợp các kênh bán hàng trực tuyến với bán lẻ trực tiếp, sẽ giúp tối đa hóa miếng bánh doanh thu. Quan trọng nhất là luôn đặt khách hàng ở trọng tâm.
Và theo nghiên cứu thì Omnichannel giúp các công ty giữ lại 89% khách hàng, gấp hơn hai lần so phát triển từng kênh bán lẻ riêng biệt. Nên việc sử dụng Omnichannel sẽ là xu hướng và chắc chắn ngày càng được sử dụng rộng rãi là điều tất yếu, đặc biệt là với các bên bán lẻ, e-commerce.

2. XÂY DỰNG DMP NỘI BỘ (BUILD DMP IN-HOUSE)
Ngày nay, hầu hết tất cả các marketer đều hiểu tầm quan trọng của dữ liệu người dùng (user data), hầu như tất cả các chiến lược, chiến thuật tiếp thị đều xoay quanh cốt lõi dữ liệu người dùng. Nếu một nhà tiếp thị có được dữ liệu người dùng chính xác, được phân loại (segmentation) kỹ càng thì có thể giúp hiểu được hành vi khách hàng chính xác, giúp vẽ được lộ trình khách hàng (customer journey) rõ ràng, từ đó giúp các nhà tiếp thị cần phải sử dụng những giải pháp gì để tiếp cận khách hàng cho hiệu quả. Đặc biệt trong bối cảnh mọi việc đều được xử lý, phản hồi theo thời gian thực ngày càng quan trọng thì việc có được & kết hợp dữ liệu với các công cụ phù hợp cũng sẽ rất quan trọng.
Do đó, việc sử dụng DMP (data management platform – nền tảng thu thập quản lý phân tích dữ liệu) trong digital marketing một việc tất yếu với lý do như sau:
- Các brands đều thấy tầm quan trọng của dữ liệu nhưng hầu hết hiện nay các brands khi thực hiện các chiến dịch đều thông qua các agencies hoặc nếu tự thực hiện (media in-house) thì đều sử dụng nền tảng của bên thứ 3 như Google, Facebook … Lúc này, dữ liệu nếu thu được đều thuộc sở hữu của bên khác – những bên sở hữu nền tảng hoặc các agencies, trong khi chính các brand là người chi tiền nhưng hầu như không được sở hữu.
- Hoặc nếu có thu và sở hữu được dữ liệu thì các brands cũng không thể đồng bộ hóa dữ liệu đa nền tảng (Universal Cookies Sync) từ dữ liệu online, dữ liệu offline … bao gồm cả dữ liệu từ CRM lại với nhau, không thể phân tích để định danh người dùng một cách chính xác, giúp phân loại chính xác, hiểu được hành vi, thói quen, hành trình người dùng, … thậm chí là cả dự định để giúp tiếp cận chính xác hơn, tạo ra hiệu quả cao hơn.
- Theo một nghiên cứu gần đây của IDC Research thì một doanh nghiệp sở hữu DMP, hiểu được khách hàng rõ ràng chính xác thì có thể giúp họ cải tiến qui trình, giúp ra quyết định tốt gấp 3 lần so với các bên không sở hữu.

- Một lý do trong quá trình tư vấn cho khách hàng là hơn 90% chủ doanh nghiệp, các quản lý cấp cao tại các brands đều nhận thấy & trăn trở việc họ không thể khai thác tối đa cơ hội từ dữ liệu có sẵn trong CRM của chính các brands.
Do đó, việc xây dựng & sở hữu DMP nội bộ chắc chắn là xu hướng trong thời gian tới, có lẽ là cuộc chơi của những người khổng lồ. Ở Việt Nam hiện tại có thể nêu ra vài brand đã và đang xây dựng, sở hữu DMP nội bộ như: Unilever, P&G, Carlberg Beer, và một vài brand thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng.

3. VIDEO DỌC (VERTICAL VIDEO)
Cisco System dự báo đến 2020 thì việc đăng, xem và tải video chiếm 80% lưu lượng internet toàn cầu. Năm 2017 là gần 70% với việc đăng, xem & tải video chiếm gần 50.000 petabyte so với tổng lưu lượng internet toàn cầu là 67.671 petabyte. Cứ mỗi phút có 18.000 phút video được đăng lên Youtube. Người dùng hiện nay, đặc biệt thế hệ Millenials và các thế hệ sau nữa xem Youtube và các nền tảng phát trực tuyến (streaming) nhiều hơn xem TV. Với Facebook hiện đăng phục vụ hơn 8 tỷ lượt xem video một ngày, trong khi con số ở Youtube là hơn 10 tỷ lượt xem một ngày. Vì thế, Facebook, Twitter đang  ngày càng cung cấp nhiều các giải pháp quảng cáo video và cả việc đăng tải video lên newfeed. Và cũng không có gì ngạc nhiên khi sử dụng video là xu hướng tiếp thị.
Theo báo cáo của Google người dùng Việt Nam là đối tượng xem Youtube nhiều nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, và đứng thứ 5 trên thế giới về việc tiêu tốn thời gian cho Youtube. Họ xem chương trình truyền hình (TV shows), phim, clip âm nhạc & các nội dung phát trực tuyến được thực hiện bởi người dùng khác (live-stream). Tỷ lệ người dùng chú ý đến quảng cáo bằng video (gần 70%) cao hơn so với quảng cáo bằng banner (hơn 51%).
Khác với việc các TVC được dùng cho TV (thường thời lượng là 30s; có âm thanh; nút thắc quyết định, thông điệp, brand xuất hiện cuối TVC), với video dùng cho tiếp thị trực tuyến thì do thói quen người dùng đã thay đổi, dường như người dùng trên môi trường trực tuyến vội vàng hơn, cụ thể theo số liệu từ Google thì một người dùng chỉ dừng 3 giây (tối đa là 5 giây) tại một mẫu video quảng cáo trước khi quyết định nhấn “bỏ qua” hoặc xem tiếp; con số này với số liệu được cung cấp từ Facebook càng thấp hơn nữa đó là một người dùng chỉ dừng tối đa tại một mẫu quảng cáo 1,25 giây trước khi quyết định lướt qua nó.
Vì vậy thách thức đặt ra với các bên sử dụng video trong tiếp thị là phải tạo ra được video bao gồm các tiêu chí sau:
- Thu hút nhanh (Attention Quickly): Hãy bắt đầu với những khoảnh khắc quyến rũ, thu hút, ấn tượng nhất từ đầu để hạn chế việc người dùng “Bỏ qua” khi xem mấy giây đầu tiên. Video có thể 30 giây nhưng phải truyền tải được thông điệp & brand trong vòng 5 giây.
- Sound Off: Vẫn hiểu được thông điệp từ video truyền tải trong trường hợp có âm thanh hoặc tắt âm thanh.
- Hãy cố gắng tạo ra câu chuyện bằng thị giác (visual story) và đa phần người dùng xem video khi online bằng điện thoại nên hãy tìm hiểu thêm hình thức video dọc (vertical video) việc này giúp tăng trải nghiệm người dùng.
Video thông thường (Horizontal Video - video ngang) có tỉ lệ hiển thị là 16:9 thậm chí hiện nay với các dòng điện thoại thông minh đời mới thì tỉ lệ hiển thị là 18:9 - đó là với video thông thường, còn với Vertical Video thì tỉ lệ hiển thị sẽ là 9:16 hoặc 9:18 với các dòng điện thoại thông minh mới.
Với việc đa phần người dùng xem video trên internet và truy cập trực tuyến là thế hệ Millenials bằng điện thoại thông minh & đây cũng là thế hệ có xu hướng xác thực và họ dễ tin vào những gì được streaming trực tiếp nên một mảng của video nhờ đó phát triển vũ bão đó là: Live-Streaming.
Theo Facebook, một người dùng Việt Nam thường dành 3 lần để xem 1 đoạn streaming so với chỉ 1 lần cho video thông thường. Và hầu hết những người streaming thường phát với video dọc (vertical video).
Cùng với sự phát triển của video, của streaming và với thói quen sử dụng điện thoại khi truy cập trực tuyến thì để nhằm tận dụng lợi thế của video và tăng trải nghiệm người dùng các nhà phát triển cung cấp giải pháp đã và đang cung cấp các giải pháp Vertical Video. Vậy Vertical Video chắc chắn sẽ là một xu hướng, và hiện tại ở Việt Nam hình thức vertical video này đã dùng cho tiếp thị như Vietnam Airlines …
4.TÍCH HỢP (INTEGRATED)
4.1 Tích hợp các công cụ digital vào kế hoạch marketing tổng thể (IMC – Integrated Marketing Communications)
IMC là điều các marketer bắt buộc phải thực hiện, đặc biệt là với các nhãn hàng FMCG. Một kế hoạch IMC bao gồm sự kết hợp rất nhiều kênh, nhiều phương thức khác nhau một cách đồng nhất như: TV, Print Ads, Pr, Activation … và tùy theo brand, mục tiêu, đối tượng, ngân sách mà họ có thể thêm hoặc bớt một vài kênh hoặc một phương thức nào đó khi lập kế hoạch IMC.
Việc tích hợp các công cụ digital vào một kế hoạch marketing tổng thể, theo báo cáo của Google thì hiện nay chỉ có 7% các doanh nghiệp Việt Nam đã từng hoặc đang sử dụng các công cụ digital phục vụ cho các kế hoạch marketing, đa phần là các SMEs. Một con số rất nhỏ so với tổng số lượng doanh nghiệp tại Việt Nam đến cuối 2016 theo VCCI là gần 700.000 doanh nghiệp. Trong khi đó việc kết hợp đồng nhất giữa các kênh truyền thống và digital mang lại hiệu quả rất tốt (theo SmartInsight là hơn 60%).
Ngoài ra việc hiện nay hầu hết các doanh nghiệp đều có một mong muốn là vươn ra thế giới (go global) thì không có công cụ nào có thể giúp các doanh nghiệp có được độ phủ rộng rãi, chính xác, nhanh chóng như digital. Và với việc tiếp cận các công cụ digital, xây dựng một team media nội bộ phụ trách rất dễ dàng, chủ động nên việc tích hợp digital vào kế hoạch marketing tổng thể chắc chắn là xu hướng và ngày càng trở nên tất yếu khi marketer lên kế hoạch marketing.
4.2 Tích hợp hành trình khách hàng (Customer Journey) cùng với các hoạt động marketing
Hầu hết các marketer hiện nay đều trăn trở một điều là làm sao ngày càng nâng cao được hiệu quả của các chiến dịch tiếp thị quảng cáo trong bối cảnh cả bên client/brand lẫn bên agency đều nói về PERFORMANCE BASED ADS (PERFORMANCE MARKETING). Để làm được điều này thì marketer phải đứng ở quan điểm của người dùng, hiểu được insight của người dùng, hiểu được hành vi, lộ trình của họ; từ đó mới có thể lập được bản đồ hành trình khách hàng của từng nhóm khách hàng khác nhau, thậm chí là từng khách hàng khác nhau nhằm giúp biết được công cụ nào phù hợp để tiếp cận khách hàng trong từng giai đoạn cụ thể. Việc này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của DMP như trends 2 chúng tôi đã nêu ở trên.
Việc tích hợp hành trình khách hàng (customer journey) vào kế hoạch marketing giúp chúng ta hiểu được tại mỗi điểm tiếp xúc (touchpoint) thì chúng ta cần sử dụng công cụ gì để tiếp cận cho phù hợp (paid, owned, earned media). Sau đó, các marketer/advertiser cần tổng hợp phân tích, tối ưu nhằm giúp theo sát người dùng hơn, tăng trải nghiệm cho người dùng, tăng tính liên quan của quảng cáo, phản ứng kịp thời với những vấn đề phát sinh. Và trên hết là tăng hiệu quả quảng cáo, tăng hiệu quả tiếp thị, giúp hỗ trợ bán hàng hoặc tăng doanh thu tốt hơn.
5. CÁ NHÂN HÓA TRẢI NGHIỆM NGƯỜI DÙNG (PERSONALIZE THE USER EXPERIENCE)
Cũng với trăn trở về performance của các marketer, các advertiser, các brands, thậm chí là các PUBLISHER thì việc hiểu được mong muốn, nhu cầu, insights của từng khách hàng để tối ưu từng mẫu quảng cáo, từng thông điệp, từng giao diện người dùng (UI) của web, từng mẫu tin … được đưa tới từng người dùng sao cho phù hợp và có tính liên quan nhất đến từng cá thể khách hàng, hoặc ít nhất cũng là phù hợp với từng tập khách hàng đã được phân loại (segmentation) kỹ càng.
Vậy chúng ta cần phải thực hiện được việc cá nhân hóa trải nghiệm người dùng nhằm đạt hiệu quả tiếp thị (performance marketing). Có 3 cấp độ thực hiện & đặc biệt là dù brand có nhiều ngân sách hay ít ngân sách đều có thể thực hiện được tất cả các cấp độ hoặc ít nhất là ở cấp độ đầu tiên:
- Cấp 1 - A/B Testing & Tối ưu hóa: một marketer hãy mạnh dạn thử (test) mọi thứ, thử nghiệm đa biến nếu có thể liên tục, phân tích kết quả, rút kinh nghiệm hay rút ra được mẫu số chung, sau đó tối ưu chiến dịch. Không nên tự suy nghĩ, phỏng đoán thay cho người dùng. Keyword ở phần này là: Testing everything, assume nothing.
- Cấp 2 -Phân loại (Segmentation): Sau khi đã test và thu được lượng dữ liệu đủ thì sẽ tiến hành phân loại khách hàng theo từng tập/nhóm khách hàng cụ thể (có thể theo nhân khẩu, hành vi, sở thích, nhu cầu, … thậm chí là dự định). Việc này có thể tiến hành một cách thủ công hoặc có sự trợ giúp của máy móc hoặc các bên có sở hữu nền tảng thu thập & phân tích dữ liệu. Sau đó, chúng ta tiến hành nhắm chọn (targeting) hoặc tái nhắm chọn (re-targeting) đến từng tập/nhóm khách hàng với những nội dung và creative phù hợp nhằm tăng tính liên quan và giúp tăng t lệ chuyển đổi (conversion rate).
- Cấp 3 – Cá nhân hóa (Personalization): ở cấp độ này chúng ta sử dụng công nghệ để cung cấp trải nghiệm cá nhân đến từng cá thể người dùng với những mong muốn hoàn toàn khác nhau, vẫn sử dụng một số nguyên tắc tương tự như phần Tối ưu hóa hay phần Phân loại nhưng có một số khác biệt, kiểu như cung cấp dịch vụ private 1-1. Cấp độ này cần rất nhiều đến sức mạnh công nghệ, những nền tảng mạnh mẽ và trên hết là cần đến sự lợi hại của DMP.
Xu hướng này rất phù hợp với bên bán lẻ; các sản phẩm tài chính, tiêu dùng; các app: ở Việt Nam có app tin tức TIN8 – all new in one app hiện đang sử dụng DMP để cung cấp cho người dùng những trải nghiệm được cá nhân hóa. Và để thực hiện hoàn chỉnh thì cần rất nhiều đến công nghệ, ngân sách.
6. NGƯỜI NỔI TIẾNG & NGƯỜI CÓ SỨC ẢNH HƯỞNG TRONG PHẠM VI NHỎ (INFLUENCER & MICRO-INFLUENCER)
Trong những năm vừa qua, sự tăng trưởng rõ rệt trong trong việc sử dụng Influencer trong quảng cáo tiếp thị, đặc biệt là trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội (social network). Đây là một phương thức tiếp thị rất hiệu quả, ít nhất là ở việc tối ưu chi phí, nhưng lại có thể dễ dàng tiếp cận được những đối tượng có sự liên quan và có tính tương tác rất cao. Tuy nhiên, dù năm 2018 vẫn sẽ là một năm phát triển mạnh mẽ của hình thức này nhưng đang có một sự dịch chuyển ngày càng rõ rệt về sự tin tưởng chất lượng sản phẩm, tương tác của người tiêu dùng từ những KOLs (người nổi tiếng) hay Influencer sang những Micro-Influencer, thậm chí là sự dịch chuyển từ chính các nhãn hàng (brand) hoặc các doanh nghiệp nhỏ vì lý do chi phí phù hợp hơn.
Micro-Influencer thực chất chính là những người có lượng người dùng theo dõi (follow) thấp. Họ có thể là tất cả những người bạn biết, ở mọi ngành nghề lĩnh vực, từ những blogger đến những người chỉ là người bình thường hoặc những người đã xây dựng sự theo dõi trung thành trên truyền thông xã hội. Nhưng lượng người dùng theo dõi không phải là chỉ số duy nhất để tạo nên người có tầm ảnh hưởng nhỏ (Micro-Influencers). Cũng giống với những người có ảnh hưởng thường xuyên (Influencers), con số người dùng tương tác là điều thực sự quan trọng. Sự tương tác chính là cái cho thấy khán giả của họ thật sự quan tâm đến người đó, họ quan tâm đến quan điểm và ý kiến của người đó và họ lắng nghe người đó.
Nếu bạn đang nghĩ về việc sử dụng những người có ảnh hưởng (Influencers) để tiếp thị, quảng cáo cho doanh nghiệp, sản phẩm của bạn, thì những người có ảnh hưởng nhỏ (Micro-Influencers) là một sự lựa chọn rất tốt để bắt đầu, đặc biệt nếu bạn có một doanh nghiệp nhỏ hoặc nếu bạn là một doanh nhân đơn thuần hoặc người giải quyết bài toán tài chính hạn hẹp cho nhãn hàng. Những người có ảnh hưởng nhỏ (Micro-Influencers) có một lượng người xem nhỏ hơn nhiều thì không có nghĩa những người có ảnh hưởng nhỏ không thể tạo nên tác động khổng lồ trong thành công của bạn.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có tới 70-80% network bạn bè của một người trên mạng xã hội có những hành vi, sở thích, .. tương tự như người đó. Và người tiêu dùng có xu hướng tin tưởng sử dụng những sản phẩm mà bạn bè của họ gợi ý, đề cập, chia sẻ hơn là từ những người nổi tiếng, những Influencer đích thực; đơn giản là vì đa phần người dùng nghĩ các Influencer nhận tiền để quảng cáo cho sản phẩm, thì cũng đa phần người dùng tin những chia sẻ đích thực từ chính những trải nghiệm của bạn bè họ, rằng đó không phải là quảng cáo, họ có thể thấy đâu đó có sự liên quan đến chính họ trong những chia sẻ này.
Một số trường hợp, số lượng nhỏ nhóm người xem của những người có tầm ảnh hưởng nhỏ lại có những mục tiêu cụ thể hơn và họ tương tác tốt hơn, phần lớn bởi vì họ đang tạo ra sự quan tâm và theo đuổi mục tiêu thực sự rõ ràng hơn (trong khi người có ảnh hưởng lớn có thể có nhiều người theo dõi mới chỉ đơn giản bởi vì họ có nhiều người theo dõi và chính điều đó thu hút sự theo dõi của người khác). Những người có tầm ảnh hưởng nhỏ (Micro-Influencers) cũng dễ dàng để tác động, thu hút hầu hết người dùng tương tác và kết nối với họ hơn, trong khi những người có ảnh hưởng lớn sẽ không bao giờ có thể tác động đến tất cả những người theo dõi họ.

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2018

VỤ ÁN MOBIFONE-AVG

VỤ ÁN MOBIFONE MUA AVG

Ngày 25/12/2015, MobiFone ký hợp đồng với cổ đông AVG nhận chuyển nhượng 95% cổ phần AVG với tổng giá trị khoảng 8.889 tỉ đồng. Trong vòng 22 ngày sau, MobiFone đã thanh toán khoản tiền gần 8.445 tỉ đồng cho AVG.
Cuối năm 2015, MobiFone công bố việc mua lại AVG nhưng giá trị của thương vụ này không được tiết lộ. Tháng 11/2016, lần đầu tiên MobiFone công bố giá trị thương vụ này là 8.889 tỷ đồng. Việc thanh tra toàn diện việc MobiFone mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG) đã bắt đầu từ tháng 9/2016.

A. TÓM TẮT VỤ ÁN MOBIFONE-AVG
Thương vụ xuất phát từ tháng 10/2014, khi AVG có văn bản gửi Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông (4T), lúc đó là BT Nguyễn Bắc Son, về việc AVG chuyển nhượng cổ phần cho NĐT nước ngoài để trở thành cổ đông chiến lược, giá mua bằng 7 lần giá vốn, tức vào khoảng 525 triệu USD, tương đương 75% cổ phần. AVG đã nhận cọc 10 triệu $. Nhưng khi TTCP vào cuộc thì cả AVG và Bộ 4T đã không cung cấp được bất cứ tài liệu, chứng cứ nào về việc AVG đàm phán và nhận khoản đặt cọc 10 triệu $ với NĐT nước ngoài. Như vậy việc này là không có thật.
Sau đó, Bộ 4T đã yêu cầu Bộ Công an xem xét hướng dẫn AVG chuyển nhượng cổ phần. Ngày 8/12/2014, Bộ Công an có văn bản gửi Bộ 4T hướng dẫn AVG không được phép chuyển nhượng cho nước ngoài mà chỉ nên bán cổ phần cho NĐT trong nước.
Ngày 1/12/2014, Bộ 4T ra Quyết định 1798, thành lập Tổng công ty viễn thông MobiFone trên cơ sở tổ chức lại Công ty TNHH MTV Thông tin di động, bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh phát thanh truyền hình. Như vậy, ông Nguyễn Bắc Son đã ký quyết định bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh cho MobiFone sau khi xảy ra việc AVG chào bán cổ phần.
Ngày 27/1/2015, ông Lê Nam Trà, quyền Chủ tịch HĐQT MobiFone đã có văn bản trình Bộ 4T xin phê duyệt đầu tư dịch vụ truyền hình theo phương thức mua lại một hãng truyền hình kỹ thuật số. Và ngày 6/2/2015, Bộ TT-TT có Công văn số 408/BTTTT-QLDN thống nhất chủ trương theo đề xuất của MobiFone. Đến ngày 20/3/2015, MobiFone và AVG ký HĐ ghi nhớ việc mua bán cổ phần.
Sau đó, việc mua bán chuyển nhượng cổ phần có giá trị lên tới hàng ngàn tỉ đồng của nhà nước bị che kín bởi dấu tài liệu “mật”, toàn bộ quá trình đàm phán, đấu thầu, kể cả thẩm định giá. Đây là chiêu thức nhằm không ai biết, can thiệp vào việc người có chức vụ quyền hạn của MobiFone lấy tiền nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp thông đồng với tư nhân.
Việc MobiFone dù biết tình hình kinh doanh của AVG rất xấu (âm 50%VĐL, thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng, các số liệu về dự án này thiếu cơ sở, kết quả thẩm định giá của các đơn vị thẩm định thiếu căn cứ,..) được báo cáo cho Bộ 4T, khi tiến hành thẩm định, lập và phê duyệt dự án, 4T tại văn bản số 5054/MOBIFONE ngày 14/9/2015, số 5441/MOBIFONE ngày 28/9/2015 và số 58/MOBIFONE ngày 25/9/2015 nhưng lãnh đạo Bộ 4T không chỉ gạt bỏ ý kiến phản biện của cấp dưới, báo cáo sai sự thật với Thủ tướng (NTD) về tình trạng bết bát của AVG. 
Cả khi ông Nguyễn Bắc Son ký quyết định thành lập tổ thẩm định (gồm 6 người) dự án, lãnh đạo 4T đã không tôn trọng ý kiến của các thành viên trong tổ, thậm chí gạt bỏ ý kiến phản biện. Tổ này họp vào ngày 8/10/2015, nhưng cuộc họp không ghi biên bản. Đáng lưu ý, 5 thành viên của tổ có báo cáo gửi tổ trưởng là ông Phạm Đình Trọng - Vụ trưởng Vụ Quản lý DN. Trong đó, Vụ trưởng Vụ Pháp chế có bản nhận xét nêu 2 ý kiến, trong đó nổi bật là nội dung phân tích để lựa chọn phương án mua cổ phần AVG thay vì đầu tư mới còn sơ sài, chưa đầy đủ thông tin cụ thể, cũng như chưa phân tích, so sánh ưu nhược điểm từng phương án.
Ngày 28.10.2015, ông Phạm Đình Trọng là tổ trưởng tổ thẩm định đã tham mưu để Bộ 4T ra Văn bản số 209/BTTTT-QLDN trình Thủ tướng xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư với dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của MobiFone. Trong đó ghi rõ: “Dự án đầu tư ra ngoài DN của MobiFone có mức đầu tư 8.900 tỉ đồng thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ” và kiến nghị Thủ tướng xem xét phê duyệt.Tuy nhiên, ông Nguyễn Bắc Son còn “bút phê” cho Thứ trưởng Trương Minh Tuấn (nay là bộ trưởng), lạm quyền ký luôn quyết định phê duyệt dự án thay cho Thủ tướng.
Ngoài ra, Phó cục trưởng Cục Báo chí ngày 15/10/2015 cũng có báo cáo nêu, dự án chưa có điều kiện đi sâu phân tích những lợi thế của AVG so với các DN nhà nước khác kinh doanh truyền hình. Đồng thời cảnh báo hiện có nhiều DN kinh doanh truyền hình đang thua lỗ và bị sụt giảm thị phần nghiêm trọng, dù tồn tại trên thị trường đã nhiều năm.
Tuy nhiên, tất cả ý kiến phản biện trên đã bị bỏ qua. Ngoài ra, Bộ 4T báo cáo nhiều nội dung của dự án không đúng, không đầy đủ, không khách quan với Chính phủ như: Việc đối tác nước ngoài mua AVG giá 700 triệu USD, đã đặt cọc 10 triệu USD; việc AVG sử dụng 4 băng tần có giá trị lớn và tạo ra lợi thế nhưng không được loại trừ ra khi định giá AVG...
Tháng 7/2017, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng đặt vụ Mobifone- AVG vào nhóm các vụ cần "khẩn trương thanh tra". Nhưng tiến trình được đẩy tới bước ngoặt sau khi Ban Bí thư Đảng Cộng sản, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tuyên bố hôm 8/03" đây là một vụ việc rất nghiêm trọng, phức tạp, nhạy cảm".
Sáng hôm 13/3 Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo Ban Bí thư, Thường trực Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ về thông tin hủy bỏ thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần giữa Tổng Công ty Viễn thông MobiFone thuộc Bộ Thông tin - Truyền thông và Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG). 
Dư luận cũng đặt câu hỏi về vai trò của Bộ trưởng Thông tin - Truyền thông, Trương Minh Tuấn, trong việc giám sát thương vụ này. Hồi tháng 11/2017, Bộ trưởng Trương Minh Tuấn đã bị một đại biểu Quốc hội chất vấn về thương vụ Mobifone mua AVG. Trả lời đại biểu Lê Thanh Vân, ông Trương Minh Tuấn cho biết đến thời điểm đó, ông "chưa nhận được kết luận từ Thanh tra Chính phủ", dù công tác thanh tra đã tiến hành xong 15 tháng trước, theo báo Tuổi Trẻ.

Trước đó, vào tháng 6/2017, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty MobiFone Lê Nam Trà được chuyển về Bộ Thông tin - Truyền thông, còn Thứ trưởng Phạm Hồng Hải được cử sang tạm thời điều hành MobiFone. Sáng tháng 8, ông Hải trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Mạnh Thắng làm Chủ tịch Hội đồng thành viên Mobifone. Đến tháng 12/2017, ông Cao Duy Hải, Tổng Giám đốc MobiFone đã được lãnh đạo Bộ Thông tin - Truyền thông "cho phép nghỉ ốm để chữa bệnh".

B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ:

1. MOBIFONE MUA AVG CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ (bao gồm luật quản ly, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp số 69/2014/QH13, Luật đầu tư năm 2014 số 67/2014/QH13, cùng ban hành ngày 26/11/2014, hiệu lực ngày 01/07/2015; và luật đầu tư công số 49/2014/QH13 ban hành ngày 18/6/2014 hiệu lực ngày 01/01/2015):

Điều 9 (luật 69). Hành vi bị cấm trong lĩnh vực đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
1. Quyết định đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp không đúng thẩm quyền, phạm vi, trình tự, thủ tục. 
2. Can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn vào hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
3. Thực hiện không đúng quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước trong việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. 
4. Thực hiện không đúng quy định về quản lý, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và quản lý phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. 
5. Giám sát, kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. 
6. Cung cấp thông tin, báo cáo không trung thực, không chính xác, không đầy đủ, không kịp thời theo quy định của pháp luật. 
7. Tiết lộ, sử dụng thông tin do doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước cung cấp không đúng quy định của pháp luật.

Điều 28 (luật 69). Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp 
1. Việc sử dụng vốn, tài sản, quyền sử dụng đất của doanh nghiệp để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan; phù hợp với chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp. 
2. Hình thức đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Góp vốn để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; góp vốn thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới; 
b) Mua cổ phần tại công ty cổ phần, mua phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; 
c) Mua toàn bộ doanh nghiệp khác; 
d) Mua công trái, trái phiếu. 
3. Các trường hợp không được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Góp vốn, mua cổ phần, mua toàn bộ doanh nghiệp khác mà người quản lý, người đại diện tại doanh nghiệp đó là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Kiểm soát viên, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc, Kế toán trưởng của doanh nghiệp; 
b) Góp vốn cùng công ty con để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. 
4. Thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp: 
a) Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định từng dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp với giá trị không quá 50% vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm quyết định dự án nhưng không quá mức vốn của dự án nhóm B theo quy định của Luật đầu tư công. 
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phân cấp cho Tổng giám đốc hoặc Giám đốc quyết định các dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo quy định tại điều lệ hoặc quy chế tài chính của doanh nghiệp; 
b) Trường hợp dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp có giá trị lớn hơn mức quy định tại điểm a khoản này, dự án góp vốn liên doanh của doanh nghiệp với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, dự án đầu tư vào doanh nghiệp khác để cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt.

Điều 5. Lĩnh vực đầu tư công
1. Đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
2. Đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
3. Đầu tư và hỗ trợ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích.
4. Đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo hình thức đối tác công tư.

Điều 16 (luật 49). Các hành vi bị cấm trong đầu tư công
1. Quyết định chủ trương đầu tư không phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; không đúng thẩm quyền; không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; không cân đối được nguồn vốn đầu tư.
2. Quyết định đầu tư chương trình, dự án khi chưa được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc không đúng với chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Quyết định điều chỉnh tổng vốn đầu tư của chương trình, tổng mức đầu tư của dự án trái với quy định của pháp luật về đầu tư công.
3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, vụ lợi, tham nhũng trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
4. Chủ chương trình, chủ đầu tư thông đồng với tổ chức tư vấn dẫn tới quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư chương trình, dự án gây thất thoát, lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước, tài nguyên của quốc gia; làm tổn hại, xâm phạm lợi ích của công dân và của cộng đồng.
5. Đưa, nhận, môi giới hối lộ.
6. Yêu cầu tổ chức, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư khi chương trình, dự án chưa được quyết định chủ trương đầu tư, chưa được phê duyệt hoặc chưa được bố trí vốn kế hoạch, gây nợ đọng xây dựng cơ bản.
7. Sử dụng vốn đầu tư công không đúng mục đích, không đúng đối tượng, vượt tiêu chuẩn, định mức theo quy định của pháp luật.
8. Làm giả, làm sai lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án.
9. Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không khách quan ảnh hưởng đến việc lập, thẩm định, quyết định kế hoạch, chương trình, dự án.
10. Cố ý báo cáo, cung cấp thông tin không đúng, không trung thực, không khách quan ảnh hưởng đến việc theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm trong triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án.
11. Cố ý hủy hoại, lừa dối, che giấu hoặc lưu giữ không đầy đủ tài liệu, chứng từ, hồ sơ liên quan đến quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện chương trình, dự án.
12. Cản trở việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư công.

Điều 8 (luật 49). Tiêu chí phân loại dự án nhóm A
Trừ các dự án quan trọng quốc gia quy định tại Điều 7 của Luật này, các dự án thuộc một trong các tiêu chí dưới đây là dự án nhóm A:
1. Dự án không phân biệt tổng mức đầu tư thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Dự án tại địa bàn có di tích quốc gia đặc biệt;
b) Dự án tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh;
c) Dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ quốc phòng, an ninh có tính chất bảo mật quốc gia;
d) Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ;
đ) Dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất;
2. Dự án có tổng mức đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, bao gồm cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ;
b) Công nghiệp điện;
c) Khai thác dầu khí;
d) Hóa chất, phân bón, xi măng;
đ) Chế tạo máy, luyện kim;
e) Khai thác, chế biến khoáng sản;
g) Xây dựng khu nhà ở;
3. Dự án có tổng mức đầu tư từ 1.500 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Giao thông, trừ các dự án quy định tại điểm a khoản 2 Điều này;
b) Thủy lợi;
c) Cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật;
d) Kỹ thuật điện;
đ) Sản xuất thiết bị thông tin, điện tử;
e) Hóa dược;
g) Sản xuất vật liệu, trừ các dự án quy định tại điểm d khoản 2 Điều này;
h) Công trình cơ khí, trừ các dự án quy định tại điểm đ khoản 2 Điều này;
i) Bưu chính, viễn thông;
4. Dự án có tổng mức đầu tư từ 1.000 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
b) Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên;
c) Hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới;
d) Công nghiệp, trừ các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này;
5. Dự án có tổng mức đầu tư từ 800 tỷ đồng trở lên thuộc lĩnh vực sau đây:
a) Y tế, văn hóa, giáo dục;
b) Nghiên cứu khoa học, tin học, phát thanh, truyền hình;
c) Kho tàng;
d) Du lịch, thể dục thể thao;
đ) Xây dựng dân dụng, trừ xây dựng khu nhà ở quy định tại điểm g khoản 2 Điều này.

Điều 9 (luật 49). Tiêu chí phân loại dự án nhóm B
1. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 120 tỷ đồng đến dưới 2.300 tỷ đồng.
2. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 80 tỷ đồng đến dưới 1.500 tỷ đồng.
3. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 4 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 60 tỷ đồng đến dưới 1.000 tỷ đồng.
4. Dự án thuộc lĩnh vực quy định tại khoản 5 Điều 8 của Luật này có tổng mức đầu tư từ 45 tỷ đồng đến dưới 800 tỷ đồng.

Điều 31 (luật 67). Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ 
Trừ những dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo pháp luật về đầu tư công và các dự án quy định tại Điều 30 của Luật này, Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án sau đây: 
1. Dự án không phân biệt nguồn vốn thuộc một trong các trường hợp sau: 
a) Di dân tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi, từ 20.000 người trở lên ở vùng khác; 
b) Xây dựng và kinh doanh cảng hàng không; vận tải hàng không; 
c) Xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia; 
d) Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí; 
đ) Hoạt động kinh doanh cá cược, đặt cược, casino; 
e) Sản xuất thuốc lá điếu; 
g) Phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu chức năng trong khu kinh tế; 
h) Xây dựng và kinh doanh sân gôn; 
2. Dự án không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này có quy mô vốn đầu tư từ 5.000 tỷ đồng trở lên; 
3. Dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng, trồng rừng, xuất bản, báo chí, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn nước ngoài; 
4. Dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.

=> KẾT LUẬN: MẶC DÙ CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ, NHƯNG XÉT VỀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA CÁC LUẬT TRÊN THÌ KHÔNG ĐỦ CĂN CỨ KẾT LUẬN MOBIFONE VI PHẠM ĐƯỢC.


Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018

Bài thơ: Về đi anh người con xứ quảng

Bài thơ: Về đi anh người con xứ quảng
(LS Nguyễn Cao Hùng tặng anh Vũ Trọng Kim ngày 24/12/2017)

Về đi anh người con xứ quảng

Về đi anh đem lửa hồng cách mạng

Để sưởi ấm lòng người đang nghiêng ngã

Giữa thế sự Quảng Đà ren rối

Hãy nhóm lại cờ hồng chiến sĩ

Khi ngọn lửa trong lò đang rực cháy

Khi lão đốt lò còn chưa ngơi nghỉ

Hãy là người thanh niên xung kích

Khơi dậy tiếng hát "Bài chòi" a nhé!




(Trích điệu cổ bản bài chòi mới viết của anh Vũ Trọng Kim- ĐBQH, nguyên UVTW Đảng, PCT UBTWMTTQ Việt Nam)


Dặn lòng ta hãy không ngưng

Diệt bầy tham nhũng chống lưng cường hào 

Bệnh hành chánh thói ngăn rào

Quay lưng đồng chí đồng bào thiêng liêng

Đốt lò-nóng máu Tiên Rồng

Nướng cho sạch cái lũ điên hại đời.