Công ty Luật Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 334 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 0911666884- 0924.488.884.

Công ty Đấu giá Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 07 Khúc Hạo, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng

Kim Trọng Hùng Group Kính chào Các bạn

Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng. Website:luatkimtronghung.com.

Luật sư Vũ Trọng Kim-CT Hội cựu TNXP

Ủy viên trung ương ĐCS khóa VIII, IX, X, XI. Đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XIII, XIV.

Luật sư Nguyễn Cao Hùng-Giảng viên thỉnh giảng Luật Đầu tư

Tác giả sách: 200 câu hỏi đáp về Khiếu nại, tố cáo. Đồng tác giả sách: Bình luận KH BLTTHS 2015-XNB CAND

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Xung đột về đất đai là dạng phổ biến của “mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân” ở nước ta hiện nay. Và kinh nghiệm giải quyết xung đột về đất đai ở các nước láng giềng.

Xung đột về đất đai là dạng phổ biến của “mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân” ở nước ta hiện nay. Và kinh nghiệm giải quyết xung đột về đất đai ở các nước láng giềng. 

Đất đai có một vị trí đặc biệt đối với con người, xã hội ở bất kỳ thời đại nào và ở bất cứ quốc gia nào. Việc giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ quốc gia luôn là nhiệm vụ thiêng liêng của cả cộng đồng cũng như của từng người dân trong cộng đồng. Xã hội càng phát triển, nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng. Chính vì vậy, hiện nay, nhân loại đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba, nhưng ở trên phạm vi quốc tế, nhiều tranh chấp, xung đột về biên giới, biển, thềm lục địa, các hòn đảo vẫn đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Trong từng quốc gia, những tranh chấp về đất đai vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt, ở các quốc gia đang phát triển, nhu cầu sử dụng đất vào việc xây dựng các cơ sở công nghiệp, thương mại, du lịch, văn hóa, giao thông,... tăng nhanh với tốc độ chưa từng có.Điều này đã làm cho một phần đáng kể đất đai bị chuyển đổi từ đất ở, đất canh tác, đất tư nhân sang các loại đất sử dụng khác với chủ sở hữu hoặc sử dụng khác, tạo nên những sự đảo lộn của cuộc sống không ít hộ dân cư. Đồng thời, những tác động tiêu cực khác trong quá trình thu hồi đất, sử dụng đất, quản lý đất... đã làm cho nhiều mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội nảy sinh. 



Ở Việt Nam, trong lịch sử cũng như hiện tại vấn đề đất đai luôn nổi cộm. Những mâu thuẫn, những tranh chấp, xung đột về đất đai diễn ra khá phức tạp. Số vụ khiếu nại, tố cáo liên quan tới vấn đề đất đai chiếm tỷ lệ cao trong các loại khiếu kiện. Điều này cho thấy những hạn chế của nước ta trong việc quản lý đất đai. 

1. Xung đột về đất đai là dạng phổ biến của “mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân” ở nước ta hiện nay 

1.1. Quan điểm macxit về tính phổ biến của mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân: 

Mâu thuẫn là hiện tượng tồn tại khách quan trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy. Trong xã hội, mâu thuẫn không những chỉ tồn tại giữa các giai cấp đối kháng nhau, giữa nhân dân với kẻ thù, mà ngay trong nội bộ nhân dân cũng có mâu thuẫn. Song, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân khác căn bản về chất so với mâu thuẫn giữa nhân dân với kẻ thù hay mâu thuẫn đối kháng nói chung. Việc sử dụng khái niệm “mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân” trước hết là nhằm mục đích phân biệt với mâu thuẫn địch – ta trong đấu tranh cách mạng. Nếu không thấy sự khác nhau giữa hai loại mâu thuẫn đó, người ta sẽ mắc sai lầm khi lựa chọn phương pháp giải quyết chúng trong hoạt động thực tiễn. Mặt khác, cũng là sai lầm nếu phủ nhận hoặc che giấu sự tồn tại của mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nếu chỉ thừa nhận sự nhất trí về lợi ích căn bản trong nội bộ nhân dân. 

Thực tế cho thấy, những điểm xảy ra mâu thuẫn phức tạp trong nội bộ nhân dân chủ yếu là nơi chứa đựng, hội tụ những thắc mắc, khiếu kiện của quần chúng chưa được giải quyết kịp thời, hoặc đã giải quyết nhưng chưa triệt để, dứt điểm, dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, khiếu kiện vượt cấp gây mất trật tự trị an ở nhiều nơi. Nguyên nhân của các mâu thuẫn đó, xét đến cùng, đều bắt nguồn hoặc là từ chính quyền hoặc là từ nhân dân. Về phía chính quyền, đó là những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý cũng như trong các chủ trương, chính sách, pháp luật đã tạo “kẽ hở” cho một số cán bộ có chức quyền nhưng đã thoái hoá, biến chất lợi dụng để trục lợi, tham nhũng, khiến quần chúng bất bình và đấu tranh. Về phía nhân dân, nguyên nhân là do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của phần lớn trong số họ chưa cao, còn bất cập với quá trình mở rộng dân chủ. Từ đó, dẫn đến sự nhận thức và hành động lệch lạc của một bộ phận nhân dân. 

Những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân có thể phát triển thành “điểm nóng xã hội” hoặc “điểm nóng chính trị – xã hội” nếu như chúng không được giải quyết kịp thời, thích hợp, triệt để. Thực chất, điểm nóng xã hội là nơi mà mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân diễn biến gay gắt, quyết liệt, bùng nổ thành sự tranh chấp, gây rối, xung đột, gây hậu quả xấu về chính trị, kinh tế – xã hội và an ninh nông thôn. 

Bản chất của mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân là một loại mâu thuẫn không đối kháng, vì lợi ích căn bản, hợp pháp của các bộ phận nhân dân về cơ bản là thống nhất với nhau và thống nhất với lợi ích chung của cộng đồng. Tuy nhiên, với tính chất biện chứng của mình, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân - nếu không được giải quyết đúng đắn và kịp thời, sẽ có khả năng chuyển hoá thành mâu thuẫn đối kháng. Một số học giả cho rằng, “sai lầm trong đường lối, chính sách của nhà nước có thể làm cho mâu thuẫn vốn không đối kháng trở thành đối kháng”; thậm chí “sự kích động của các phần tử cực đoan, quá khích có thể đưa mâu thuẫn hiện tượng từ chỗ không đối kháng trở thành đối kháng”. Hoặc, ngay cả khi "con người không biết điều hoà lợi ích của mình thì những mâu thuẫn không đối kháng giữa họ đều có thể chuyển thành các mâu thuẫn đối kháng”. 

Nếu vì những lý do nào đó mà các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân chậm hoặc không được giải quyết kịp thời, triệt để và do vậy, trở thành những “điểm nóng” thì chúng sẽ có khả năng chuyển hoá thành mâu thuẫn đối kháng. Trong những trường hợp như vậy, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn và chứa đựng nhiều nguy cơ không thể lường hết. 

1.2. Mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở nước ta thể hiện tập trung dưới một số dạng cơ bản sau đây: 

- Một là, mâu thuẫn giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội với nhau trong nền kinh tế thị trường hiện nay; 

- Hai là, mâu thuẫn giữa bộ phận nhân dân với một số cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, sách nhiễu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; 

- Ba là, mâu thuẫn giữa các bộ phận nhân dân trong cùng một địa phương hoặc giữa các địa phương nảy sinh chủ yếu do tranh chấp đất đai, dẫn đến xô xát tập thể, thậm chí xảy ra những vụ trọng án làm tình hình an ninh trật tự trên địa bàn trở nên phức tạp; 

- Bốn là, mâu thuẫn giữa một số cơ quan, doanh nghiệp với nhau hoặc giữa cơ quan, doanh nghiệp với nhân dân địa phương. Nguyên nhân chủ yếu của dạng mâu thuẫn này là do tranh chấp đất đai và những bất đồng trong việc đền bù đất đai, giải phóng mặt bằng xây dựng giữa doanh nghiệp với người dân. Vì thế, nhân dân thuộc diện giải toả có những biểu hiện bất bình, phản ứng, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp. Tình trạng đó, một mặt, gây nên sự phức tạp về an ninh trật tự; mặt khác, gây thiệt hại về kinh tế cho cả người thuộc diện được đền bù lẫn các chủ thể phải thực hiện sự đền bù (Nhà nước, tập thể, cá nhân); 

- Năm là, mâu thuẫn giữa bộ phận quần chúng giáo dân với cơ quan nhà nước, liên quan đến đất đai, nhà thờ, hoạt động tôn giáo. Biểu hiện của dạng mâu thuẫn này trong thời gian vừa qua là tình trạng khiếu kiện của giáo dân trong một số tôn giáo đòi lại, xin lại các cơ sở vật chất (chủ yếu là đất đai) trước đây đã hiến nhượng cho nhà nước; 

- Sáu là, mâu thuẫn liên quan đến quần chúng nhân dân là người dân tộc thiểu số, phát sinh chủ yếu do tranh chấp đất đai giữa một số đồng bào dân tộc với một số nông trường hoặc với bộ phận dân di cư tự do trên địa bàn. 

1.3. Một số yêu cầu cơ bản khi giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân: 

- Thứ nhất, việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của các cấp uỷ Đảng, chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ của các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội; 

- Thứ hai, việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân chủ yếu được thực hiện bằng các phương pháp giáo dục, thuyết phục, đấu tranh tự phê bình; bằng việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tuyệt đối không sử dụng biện pháp trấn áp bằng bạo lực; 

- Thứ ba, việc giải quyết mâu thuẫn đó phải dựa trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, tăng cường hiệu lực của pháp chế để đảm bảo kỷ cương phép nước. Một mặt, phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm khắc những trường hợp cán bộ lợi dụng chức quyền để tham nhũng hoặc vi phạm pháp luật… gây bất bình cho nhân dân; mặt khác, phải chú trọng công tác giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng vi phạm dân chủ; 

- Thứ tư, việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân phải thận trọng và được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm đảm bảo các yêu cầu chính trị và pháp luật. Muốn vậy, chúng ta phải nắm chắc tình hình diễn biến của mâu thuẫn, phân tích nguyên nhân sâu xa, trực tiếp, nhận dạng đúng mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn… để xác định phương châm chỉ đạo sát hợp, lựa chọn phương pháp giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực hiện nhanh gọn, hiệu quả. 

2. Kinh nghiệm giải quyết xung đột về đất đai ở các nước láng giềng. 

Trên thế giới và một số quốc gia trong khu vực đã xử lý tốt vấn đề này, không chỉ hạn chế được những xung đột xã hội về đất đai mà còn góp phần tích cực vào sự ổn định xã hội, tập trung sức người, sức của cho việc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm của các nước sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn những ưu điểm và hạn chế của mình và trên cơ sở đó, gợi mở những giải pháp để hạn chế và giải tỏa xung đột một cách hiệu quả hơn. 

Trong quá trình phát triển, quốc gia nào cũng gặp phải những vấn đề phức tạp về đất đai và việc giải quyết vấn đề này vừa đa dạng lại vừa có những điểm chung mà chúng ta có thể tham khảo như sau: 

- Vấn đề đất đai là vấn đề cơ bản và hệ trọng trong quá trình phát triển, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa, đô thị hóa. Vì vậy, các hình thức sở hữu về đất đai ở các quốc gia dù rất đa dạng, song đều phải đặt dưới sự quản lý và điều phối thống nhất của nhà nước, nhà nước phải là người chịu trách nhiệm trước toàn xã hội trong việc quản lý đất đai để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và đảm bảo cuộc sống của người dân. 

- Công cụ quản lý cơ bản của nhà nước là các văn bản pháp lý bao gồm: các bộ luật, quy hoạch phát triển của quốc gia, các chính sách về thuế, các nguyên tắc cơ bản của việc xác định giá đền bù cho các hộ dân có phần đất bị thu hồi, giải tỏa... Các văn bản này phải đồng bộ, thống nhất và được thực hiện nghiêm túc từ trung ương đến địa phương và đến từng người dân. 

- Cơ sở để xây dựng các văn bản pháp lý, các quy hoạch phát triển là bảo đảm lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của dân cư, những người sở hữu và sử dụng đất; kết quả khảo sát, nghiên cứu khoa học; ý kiến tham gia của mọi người dân... Vì vậy, các văn bản này phải được xây dựng theo những quy trình xác định và đặc biệt phải được xây dựng công khai, minh bạch. 

- Trong quá trình đô thị hóa, giá cả đất đai có thể tăng lên một cách bất thường, những người có tiền có thể thao túng thị trường đất, các văn bản pháp lý của nhà nước phải tập trung vào những vấn đề cốt yếu nhất như chống đầu cơ đất đai, tránh sự thiếu khách quan và gây thiệt thòi cho người dân có đất bị thu hồi, giải tỏa. Những chính sách rất tích cực của Hàn Quốc, chính sách đánh thuế lợi tức vào bất động sản của Malaysia... là bài học quý về vấn đề này. 

- Mọi văn bản của nhà nước dù được xây dựng công phu đến mấy, cũng không thể dự báo, tính toán được toàn bộ những biến đổi của thực tiễn, vì vậy phải luôn có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, giá đền bù đất đai bị thu hồi, giải tỏa của Hàn quốc, Singapore,.. đều khá linh hoạt. Chính điều này đã không tạo nên những bức xúc trong nhân dân và hạn chế, thậm chí khắc phục được các hiện tượng xung đột về đất đai. 

Thực tế Việt Nam đã trải qua những “cơn sốt” về đất đai và hiện nay thị trường bất động sản chưa hồi phục.Thực tế đặt ra yêu cầu nghiên cứu một cách nghiêm túc, tìm ra được những giải pháp phù hợp với đất nước, khắc phục những hiện tượng tiêu cực về đất đai, tạo được sự đồng thuận xã hội, đưa đất nước vượt qua những khó khăn thách thức, phát triển nhanh và vững chắc. 

2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 

Hiện nay, Hàn Quốc có nền kinh tế lớn đứng thứ 4 ở châu Á và thứ 15 trên thế giới. Cách đây hơn 5 thập niên, tình hình Hàn Quốc có những vấn đề tương tự như Việt Nam hiện nay, đặc biệt là vấn đề đất đai. Trong các thập niên 60 - 90 của thế kỷ XX, quá trình đô thị hóa đã diễn ra mạnh mẽ, diện tích lớn đất đai phải chuyển đổi để xây dựng hạ tầng hoặc phát triển kinh tế, làm cho giá đất ở đô thị tăng nhanh. Lợi dụng tình hình này, các hoạt động đầu cơ đất đai đã diễn ra trên phạm vi lớn. Đầu cơ đất đai đã gia tăng đến mức trở thành vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, tạo nên tâm trạng bất an trong nhân dân. Những người có thu nhập thấp, không có hy vọng sở hữu một căn hộ hoặc một lô đất nhỏ để làm nhà ở. Điều đó gây nên cả những bức xúc, những bất bình trước những bất công của xã hội. Quần chúng nông dân ở vùng ven đô bị mất nhiều đất canh tác hoặc đất ở, nhưng giá cả đền bù lại không thỏa đáng, họ gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là rất nhiều người không thể có đủ những điều kiện để tái tạo cuộc sống sau khi đất đai đã bị thu hồi... Thực tế này đã trở thành nguồn gốc sâu xa của các cuộc xung đột xã hội. 

Khi nhận thức được nguy cơ đó, để tránh tình trạng xung đột xã hội có thể xảy ra, Chính phủ Hàn Quốc đã có những giải pháp kịp thời để khắc phục. Trong suốt hai thập kỷ (từ 1960 - 1980), Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh đất đai, đặc biệt, ban hành các quy định liên quan đến giao dịch bất động sản, đến hệ thống ấn định giá đất chuẩn và giá đất đền bù. Tuy nhiên, những sắc lệnh và những quy định của Chính phủ Hàn Quốc nói trên chỉ có hiệu quả trong một thời gian ngắn và sau đó nó mất dần hiệu quả. 

Đến đầu năm 1987, tình trạng phân hóa giàu - nghèo, sự tích tụ các mâu thuẫn xã hội trở thành những vấn đề xã hội nổi cộm, nghiêm trọng. Chính phủ Hàn Quốc đã nhận thấy, tình trạng này không chỉ gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế mà còn có thể phá vỡ cả cơ cấu chính trị, xã hội của quốc gia. Vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào việc tìm ra các giải pháp khắc phục nguy cơ nói trên. Từ kết quả của nhiều công trình nghiên cứu ấy, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng một hệ thống các chính sách, những quy định hướng vào những mục tiêu chủ yếu là chống đầu cơ đất đai và giải quyết một cách thỏa đáng lợi ích của những hộ dân có đất đai bị thu hồi, giải tỏa. 

Những chính sách mới được ban hành năm 1989 là: 

- Để đảm bảo cho việc xác định giá đất có được tính khách quan, tất cả các hệ thống định giá đất của Chính phủ được hợp nhất lại thành một hệ thống duy nhất. Hệ thống giá mới này phản ánh đúng giá trên thị trường của đất được chuyển đổi (thu hồi, giải tỏa) và là cơ sở để tính thuế đất. 

- Để giúp cho các cơ quan quản lý kiểm soát được tổng diện tích đất của từng chủ sở hữu đồng thời cũng để có thể xác định thuế lũy tiến đối với những diện tích đất đầu cơ, thuế đất được đánh trên tổng diện tích của tất cả các lô đất thuộc một chủ sở hữu (dù chúng ở các vị trí khác nhau). Cùng với quy định này còn có đạo luật quy định rõ giới hạn việc sở hữu đất. Theo đạo luật này, mỗi chủ thể sở hữu đất (hộ gia đình hay công ty) không được sở hữu một diện tích đất vượt quá 200 py-ôm (660m2). Phần đất sở hữu vượt quá giới hạn này sẽ bị đánh thuế rất cao hoặc được đề nghị bán cho chủ khác. 

- Để đảm bảo những lợi ích chính đáng của các hộ dân có đất đai bị thu hồi, giải tỏa, chính phủ quy định: 

Việc định giá bồi thường là do các chuyên gia đảm nhiệm. Việc định mức bồi thường sẽ được tính là mức trung bình của các định giá. 

Hình thức bồi thường chung là bằng tiền mặt. Tuy nhiên, các chủ sở hữu tài sản bị thu hồi có thể lựa chọn các hình thức khác, như đất đai hoặc nhà ở xã hội. Đối với đất nông nghiệp, khoản bồi thường được tính trên cơ sở 2 lần tổng thu nhập hàng năm từ sản xuất nông nghiệp và được tính toán đầy đủ để hỗ trợ người nông dân phục hồi việc sản xuất của mình. 

Mức bồi thường: Việc bồi thường đất ở tính theo giá thị trường. Các công trình xây dựng sau thời điểm công bố dự án sẽ không được bồi thường. Các công trình xây dựng không phép từ ngày công bố được cho là hợp pháp và sẽ được bồi thường tương ứng. Chính quyền thành lập Ủy ban công dân (RC) để tham vấn về kế hoạch tái định cư, giá cả bồi thường và các giải pháp khôi phục đời sống. Thông qua RC, người dân có quyền yêu cầu mức bồi thường cụ thể, cũng như các vấn đề hỗ trợ khác, hoặc có thể khiếu kiện để hủy dự án. 

Các chính sách trên đây của Chính phủ Hàn Quốc là toàn diện, đồng thời cũng tập trung vào những vấn đề bức xúc nhất của xã hội, đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, nguyện vọng của người dân và tạo ra niềm tin của nhân dân vào nhà nước. 

2.2. Kinh nghiệm của Singapore 

Singapore là một quốc đảo, diện tích nhỏ hẹp và hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, đều phải nhập nhưng lại có nền kinh tế phát triển, được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Do diện tích có hạn nên đất đai hầu hết do Nhà nước quản lý. Chính phủ Singapore xây dựng cả một chiến lược sử dụng đất đai. Sau khi có quy hoạch tổng thể, Chính phủ chuyển bản quy hoạch đó lên mạng và trưng bày tại phòng trưng bày của cơ quan chính phủ, mọi người dân có thể xem và có ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, Chính phủ xem xét và đưa ra quyết định. 

Những năm đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc đền bù, giải toả đất đai được thực hiện theo Pháp lệnh về trưng dụng đất đai. Tuy nhiên, để bảo đảm được lợi ích của người dân, Singapore có hàng loạt các quy định cụ thể như việc giải toả thu hồi đất do Nhà nước thực hiện và được áp dụng các hình thức chủ yếu: giải toả tự nguyện và giải toả bắt buộc. Nhà nước đền bù theo giá quy định thường thấp hơn giá thị trường nhưng bù lại, người dân có đất bị giải toả cũng được bố trí căn hộ chung cư giá rẻ theo quy định của Nhà nước. Singapore không có chế độ bồi thường lại bằng đất, nhờ đó mà nguồn lực vốn và đất đai được tập trung để đầu tư cơ sở hạ tầng theo hướng văn minh và hiện đại.Các giải pháp hỗ trợ về vốn, cho Ủy ban phát triển nhà ở và người mua nhà lần đầu tiên vay với lãi suất ưu đãi cũng được thực hiện đồng bộ ngay trong quá trình thực hiện Pháp lệnh. Những năm sau đó, do giá nhà đất bị đẩy lên cao, để người dân mất đất không bị thiệt và để tránh những xung đột do việc thu hồi đất đai, Chính phủ đã tính toán lại giá cả đền bù cho tương đương giá thị trường. Giá này do các công ty định giá xác định, trường hợp không thoả thuận được thì toà án xử lý. Ngoài ra, còn có hình thức Nhà nước thoả thuận mua lại đất của người dân theo giá thị trường, hoặc thực hiện đền bù bổ sung không chính thức đối với những giá trị khác chưa được tính toán để thực hiện các dự án theo quy hoạch. 

Là đất nước có diện tích đất đai hạn hẹp nên chương trình phát triển nhà ở công cộng, nhà ở xã hội được xem là giải pháp trọng yếu. Ngay từ những năm 60 thế kỷ XX, Singapore đã thành lập Ủy ban phát triển nhà, có nhiệm vụ quy hoạch và phát triển những thị trấn mới, làm mới và cải tạo các khu nhà ở để đáp ứng đủ nhà ở cho dân. Đến năm 1964, Singapore bắt đầu thực hiện chính sách “người người có nhà ở”. Từ năm 1968, khi đời sống của người dân đã được nâng lên, một chủ trương mới được thực hiện, đó là việc thực hiện chế độ “để dành tiền mua nhà”. Phần lớn những gia đình ở tại các căn hộ khép kín đều mua nhà theo hình thức để dành tiền do Nhà nước đứng ra quản lý, Chính phủ tạo mọi thuận lợi để người dân được sở hữu nhà. Trước 1960, Singapore còn ở trình độ kém phát triển với hơn 70% hộ gia đình sống trong những khu nhà ở chật chội, xuống cấp và mất vệ sinh, có tới 1/4 dân số sống ở các khu nhà ổ chuột và 1/3 người khác sống trong các khu nhà tự phát ven thành phố. Nhưng đến nay, Singapore đã có trên 93% dân số có sở hữu nhà (trong đó có hơn 80% đang ở nhà giá thấp). Đó là một thành công lớn của Singapore. 

Do sự nỗ lực của Chính phủ với những chính sách hợp lý và đồng bộ nên chỉ trong 30 năm, đến năm 1996, Singapore đã xây dựng được 30 đô thị mới, cung cấp gần 5 nghìn ha đất cho kế hoạch phát triển nhà ở công cộng, trong đó 99,4% là quỹ đất của Ủy ban phát triển nhà và 87% dân số Singapore đã được bảo đảm về nhà ở, tương đương trên 650 nghìn căn hộ chung cư. 


Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Vụ án 12a: chia tài sản sau khi ly hôn giữa ông Anh và bà Liên về căn nhà 526-An Dương Vương-TP. Hồ Chí Minh

Vụ án 12a:
Chia tài sản sau khi ly hôn giữa ông Anh và bà Liên về căn nhà 526-An Dương Vương-TP. Hồ Chí Minh

Tài sản được cho riêng vợ (hoặc chồng) khi nào là tài sản riêng, khi nào là tài sản chung vợ chồng?

Ông Nguyễn Đức Anh và bà Lã Thị Bích Liên kết hôn ngày 05/12/1976. Năm 2003, ông Anh và bà Liên ly hôn tại Canada. Năm 2004, ông Anh khởi kiện chia tài sản chung là căn nhà 526 An Dương Vương, phường 9, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Anh nêu rằng căn nhà này do vợ chồng mua vào năm 1979 nhưng ông không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh và nhằm giảm thuế nên đã giả tạo làm hợp đồng cho nhà giữa cụ Tiêu Mộc và bà Liên. Bà Liên không thừa nhận lời khai của ông Anh và khai rằng nhà 526 An Dương Vương là của cụ Mộc cho riêng bà là cháu nên là tài sản riêng của bà.

Tại Bản án sơ thẩm số 3282/2009/DS-ST ngày 03/11/2009, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã xác định nhà 526 An Dương Vương là tài sản chung của ông Anh và bà Liên căn cứ vào “Văn tự nhượng và thụ nhượng nhà” đề ngày 14/2/1992 (là văn bản có nội dung bà Liên ủy quyền cho bà Cao Thị Thanh Hồng quàn lý nhà để bà Liên xuất cảnh sang Canada do ông Anh bảo lãnh) có ghi tên ông Anh là đồng chủ sở hữu nhà.

Bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Tại Bản án phúc thẩm số 197/2010/DS-PT ngày 11/9/2010, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã sửa án sơ thẩm, xác định nhà 526 An Dương Vương là tài sản riêng của bà Liên vì cho rằng văn bản ngày 14/2/1992 chỉ ghi theo mẫu, chưa đủ cơ sở công nhận sở hữu chung. Bản án phúc thẩm đã bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.

Tại phiên họp ngày 16/12/2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định hủy Bản án phúc thẩm; giao xét xử phúc thẩm lại . Quyết đinh giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau:

Thời điểm khởi kiện chia tài sản chung là thời kỳ thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng. Tuy nhiên, việc bà Liên được tặng cho nhà 526 An Dương Vương được thực hiện hoàn thành từ năm 1979 (giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ ngày 29/8/1979 của UBND thành phố Hồ Chí Minh). Thời điểm năm 1979 là thời điểm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì; “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Thời điểm cho nhà cũng nằm trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của ông Anh và bà Liên. Do đó, nhà 526 An Dương Vương đã trở thành tài sản chung của ông Anh và bà Liên theo pháp luật mà không cần có việc đưa nhập vào tài sản chung như quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Đã là tài sản chung nên nay đã ly hôn, yêu cầu xin chia tài sản chung là có căn cứ. Việc chia tài sản chung vợ chồng là chia theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật có hiệu lực ở thời điểm chia) mặc dù việc xác định tính chất pháp lý của tài sản được áp dụng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Luật có hiệu lực ở thời điểm tạo lập tài sản).

Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:

1.Xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng phải căn cứ vào pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tạo lập tài sản.

2.Tài sản đã là tài sản chung, không có sự kiện thay đổi sở hữu thì vẫn là tài sản chung; quy định về các trường hợp hình thành tài sản riêng theo Luật Hôn nhân và ga đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có hiệu lực hồi tố đối với các tài sản đã là tài sản chung từ trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực.