Công ty Luật Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 334 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 0911666884- 0924.488.884.

Công ty Đấu giá Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 07 Khúc Hạo, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng

Kim Trọng Hùng Group Kính chào Các bạn

Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng. Website:luatkimtronghung.com.

Luật sư Vũ Trọng Kim-CT Hội cựu TNXP

Ủy viên trung ương ĐCS khóa VIII, IX, X, XI. Đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XIII, XIV.

Luật sư Nguyễn Cao Hùng-Giảng viên thỉnh giảng Luật Đầu tư

Tác giả sách: 200 câu hỏi đáp về Khiếu nại, tố cáo. Đồng tác giả sách: Bình luận KH BLTTHS 2015-XNB CAND

Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017

Tại sao phải nghiên cứu & ban hành Pháp luật về Marketing Thương mại điện tử (Law on E-Marketing)

Tại sao phải nghiên cứu & ban hành Pháp luật về Marketing Thương mại điện tử (Law on E-Marketing)

Điện thoại phải mất 35 năm để tiếp cận với 25% dân số Mỹ, truyền hình mất 26 năm, phát thanh mất 22 năm và điện thoại đi động mất 12 năm, còn Internet chỉ mất 7 năm (từ 2000-2009), trên toàn cầu đã có khoảng 1,6 tỷ người truy cập vào mạng Internet, tốc độ tăng trưởng là 362.3%. Trong ngày độc thân 11/11/2016, doanh số bán hàng Alibaba 1,47 tỷ USD chỉ trong vòng 6 phút 58. Theo số liệu do Công ty We Are Social công bố tháng 01/2017, Việt Nam có dân số khoảng 93 triệu người, trong đó 52 triệu người dùng Internet; có 46 triệu tài khoản mạng xã hội, riêng Facebook có khoản 30 triệu tài khoản và tiêu tốn hơn 3 giờ mỗi ngày/người. Theo thống kê năm 2014, cứ một người Việt có 1.45 sim điện thoại, do đó sẽ là thị trường tiềm năng đối với loại hình mobile marketing.



Tiếp thị thương mại điện tử (e-marketing) được sử dụng và biến hóa dưới nhiều cách khác nhau bởi sự phong phú và linh hoạt trong việc truyền tải nội dung. Trên môi trường Internet, khái niệm về không gian, thời gian là rất mờ nhạt và e-marketing đã tận dụng đặc điểm này để phát huy thế mạnh của mình, củng cố lợi ích mang lại cho doanh nghiệp ứng dụng.

Thương mại điện tử và công nghiệp tiếp thị là 2 lĩnh vực kinh tế mới mẻ tại VN. Đa phần các nghiên cứu đều xem xét các vấn đề về TMĐT độc lập với tiếp thị. Rất ít nghiên cứu về E-Marketing, và chỉ dừng lại khía cạnh kinh tế mà chưa xem xét đến mặt pháp lý của nó. Do đó, việc tìm hiểu và đề xuất mô hình vận động cho pháp luật trong lĩnh vực E-M phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật quốc tế, với sự vận động của các quan hệ xã hội trong môi trường kinh doanh mạng, cũng như đáp ứng được sự thay đổi không ngừng của CNTT-VT là một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa to lớn với thời đại Công nghiệp 4.0 ngày nay.

1. Hệ thống pháp lý về E-Marketing

- Một là, các đạo luật cơ bản: Bộ luật hình sự; Các điều ước quốc tế; Bộ luật dân sự;..

- Hai là, các luật chuyên ngành: Quảng cáo; Khuyến mại; Sở hữu trí tuệ; Quyền riêng tư; Cạnh tranh & Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Giao kết hợp đồng đặt hàng trực tuyến;..

- Ba là, các quy định hành chính của chính phủ

- Bốn là, Quy chế tự quản của ngành (hiệp hội): Hiệp hội quảng cáo; Hiệp hội bảo vệ QLNTD;...

2. 08 chế định cơ bản mà pháp luật điều chỉnh E-marketing

- Một là, Sở hữu trí tuệ.

- Hai là, pháp luật về Công nghệ thông tin & Viễn thông

- Ba là, pháp luật về xuất bản & báo chí

- Bốn là, pháp luật về Thuế trong lĩnh vực E-marketing

- Năm là, pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư, và riêng tư khác.

- Sáu là, pháp luật về chất lượng sản phẩm & An toàn thực phẩm; dược phẩm;..

- Bảy là pháp luật về Cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động xúc tiến

- Tám là, chế định về Hợp đồng đặt hàng trực tuyến & thanh toán trực tuyến

Ngoài ra còn có các chế tài về xử phạt vi phạm hành chính & hình sự trong tiếp thị (quảng cáo) & giá (trong khuyến mãi).


3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Thứ nhất, dự báo xu hướng vận động của pháp luật về E-Marketing, góp phần hoàn thiện pháp luật và định hướng giải quyết tranh chấp. 

- Thứ hai, góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách nhà nước, nhằm quản lý hiệu quả hơn, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nhanh chóng, ổn định và an toàn Thương mại điện tử và ngành công nghiệp tiếp thị số ở Việt Nam. 

- Thứ ba, góp phần hoàn thiện pháp luật Xúc tiến Thương mại & pháp luật cạnh tranh, Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng.

- Thứ tư, góp phần dự thảo Luật bảo vệ quyền riêng tư, Luật Thương mại điện tử phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng Công nghiệp 4.0.

- Thứ năm, tạo nền tảng khoa học pháp lý để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn pháp luật về E-Marketing & cơ chế giải quyết tranh chấp Trực tuyến. Làm tiền đề xây dựng Luật E-Marketing & pháp luật Trọng tài Thương mại Trực tuyến.

4. Phương hướng hoàn thiện pháp luật E-Marketing ở VN

a. Thứ nhất, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách quản lý chặt chẻ và hiệu quả, cần thiết phải kết hợp và phát triển các mô hình tự quản như hiệp hội quảng cáo,... Đồng thời phải sửa đổi bổ sung phần Xúc tiến thương mại của luật Thương mại 2005 để phù hợp với các pháp luật chuyên ngành và thực tiễn kinh doanh thương mại hiện đại, cụ thể như sau: 

- Một là, pháp luật về quảng cáo cần có các quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động tiếp thị, quảng cáo thông qua mạng xã hội; công cụ tìm kiếm; trình duyệt; các tiểu blog, tiểu forum,..; 

- Hai là, pháp luật về khuyến mại cần đưa ra định nghĩa phân biệt giữa các thuật ngữ như: "hạ giá", "giảm giá", "chiết khấu", " khuyến mại", "thanh lý hàng tồn kho" để tránh nhầm lẫn khi áp dụng; 

- Ba là, tiến tới việc cấm hoàn toàn việc tiếp thị, quảng cáo dưới mọi hình thức của các sản phẩm độc hại như: Thuốc lá, Rượu các loại, Bia các loại,..đúng như "lộ trình thực hiện" giai đoạn 2014-2016, trong quyết định số: 244/QĐ-TTg, ngày 12/02/2014. Từ đó, ban hành luật Phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn.

b.Thứ hai, vấn đề pháp luật cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng rất cấp thiết, để phù hợp với thực tế kinh doanh hiên nay. Luật Cạnh tranh được biết như là hiến pháp của pháp luật kinh doanh nhưng đã lạc hậu, cần phải sửa đổi bổ sung đối với một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại mà các doanh nghiệp đang lạm dụng một cách tinh vi; Hiện tại luật chỉ điều chỉnh phương pháp kinh doanh Đa cấp mà chưa điều chỉnh các phương pháp khác như Viral marketing, Placebo marketing, Ambush marketing, Mobile marketing. Ngoài ra, cũng cần phải hoàn thiện pháp luật về "tố tụng cạnh tranh" dựa trên cơ sở Hội đồng cạnh tranh hiện nay, để đảm bảo hiệu quả thực thi của nó trong thời gian đến.

c.Thứ ba, vấn đề Quyền riêng tư trong hoạt động E-Marketing cũng mang tính thời sự trong cách mạng Công nghiệp 4.0. Ngoài các giải pháp kỹ thuật, thì việc nghiên cứu ban hành Luật bảo vệ quyền riêng tư cá nhân, quyền riêng tư của trẻ em, để phòng ngừa tác hại của tiếp thị thương mại điện tử là cần thiết. Bên cạnh đó, phải ban hành pháp luật điều chỉnh các hành vi lạm dụng "Sốc-Sex-Sến" trong tiếp thị lan tỏa, để hạn chế các chủ thể lợi dụng công nghệ tăng lượt truy cập, thu hút người dùng, kiếm tiền bất chính, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, phong tục nước ta.

d.Thứ tư, vấn đề giao kết hợp đồng đặt hàng trực tuyến và cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến là vấn đề mới mẻ mà pháp luật nước ta cần nghiên cứu áp dụng, cụ thể như sau: 

- Một là, khẩn trương nghiên cứu gia nhập công ước UNCITRAL 2005 về hợp đồng điện tử, từ đó làm căn cứ để triển khai ban hành Luật Thương mại điện tử; 

- Hai là, nghiên cứu triển khai phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến, từ đó, sửa đổi bổ sung Luật Trọng tài thương mại 2010 & Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; 

- Ba là, ban hành sổ tay về pháp luật E-marketing, kèm theo chế tài để phổ biến và răng đe người dùng, khi tham gia Thương mại điện tử. Từ đó, hoàn thiện việc nghiên cứu, ban hành Luật tiếp thị thương mại điện tử ở VN ;

By: LS-ThS Nguyễn Cao Hùng



Thứ Ba, 24 tháng 10, 2017

PHÂN BIỆT CÔNG PHÁP QUỐC TẾ & TƯ PHÁP QUỐC TẾ

PHÂN BIỆT CÔNG PHÁP QUỐC TẾ & TƯ PHÁP QUỐC TẾ

A. CÔNG PHÁP QUỐC TẾ (LUẬT QUỐC TẾ)
1. Khái niệm Luật quốc tế

Công pháp quốc tế (hay Luật quốc tế) là ngành luật đặc biệt có nhiệm vụ điều chỉnh các mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các quốc gia có chủ quyền và các chủ thể khác tham gia quan hệ quốc tế (các dân tộc đấu tranh vì độc lập và tự do dân tộc mình và các tổ chức quốc tế). Nhưng ở đây cần phân biệt với Tư pháp quốc tế là ngành luật điều chỉnh những quan hệ mang tính chất dân luật có nhân tố nước ngoài tham gia. 

Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những nguyên tắc, những quy phạm pháp lý được các quốc gia và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp lý quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng, nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau (trước tiên và chủ yếu là giữa các quốc gia) và trong những trường hợp cần thiết được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể của Luật quốc tế thi hành, và bằng sức đấu tranh của nhân dân và dư luận tiến bộ thế giới.


2. Chủ thể của Luật quốc tế hiện đại 
a. Quốc gia - Chủ thể của Luật quốc tế

b. Các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết và chủ thể của Luật quốc tế hiện đại

c. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể đặc biệt của Luật quốc tế hiện đại:

Các tổ chức liên chính phủ là chủ thể đặc biệt của Luật quốc tế bao gồm: Tổ chức y tế thế giới (WHO), Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức giáo dục, khao học- văn hoá (UNESCO), Quỹ trẻ em Liên Hiệp Quốc (UNICEP), Cao uỷ Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP),…

d. Các vùng lãnh thổ như Đài Loan, Cantania,..

3. 07 Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế

a. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia

Trong Hiến chương Liên hợp quốc, nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia là nguyên tắc của Luật quốc tế và cũng là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của tổ chức quốc tế rộng rãi này. Điều 2, khoản 2 Hiến chương ghi rõ: Liên hợp quốc thành lập trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các nước thành viên.

Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về những nguyên tắc của Luật quốc tế giải thích nội dung của nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia như sau: Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý; Mỗi quốc gia đều được hưởng đầy đủ những quyền xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền; Mỗi quốc gia đều phải có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và thiện chí những nghĩa vụ quốc tế của mình đã tự nguyện cam kết;

Nguyên tắc này biểu hiện qua những quan điểm sau đây:

- Thứ nhất, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về mặt pháp lý.

- Thứ hai, tất cả các quốc gia đều có những quyền làm nghĩa vụ quốc tế cơ bản như nhau. 

- Thứ ba, tất cả các quốc gia đều có quyền như nhau được tôn trọng về quốc thể, về sự toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị độc lập.

- Thứ tư, mỗi quốc gia có quyền được tự do tham gia vào việc giải quyết vấn đề liên quan đến lợi ích của họ không một quốc gia nào có quyền trước đó của một quốc gia khác. 

- Thứ năm, khi giải quyết những vấn đề quốc tế trong phạm vi các tổ chức và hội nghị quốc tế, mỗi quốc gia đều sử dụng một lá phiếu có giá trị ngang nhau. 

- Thứ sáu, các quốc gia ký điều ước với nhau phải trên cơ sở phải bình đẳng, không có một quốc gia nào có quyền áp đặt những điều kiện không bình đẳng đối với quốc gia khác. 

b. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác

Nguyên tắc không can thiệp là tất cả các quốc giai chấp hành có nghĩa vụ không được hành động can thiệp vào công việc thuộc thẩm quyền của quốc gia khác.

Nguyên tắc không can thiệp là hệ quả của nguyên tắc chủ quyền quốc gia. Việc thực hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, tức là tôn trọng quyền tối cao ở trong nước và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế của quốc gia, đương nhiên phải tôn trọng hoạt động thuộc thẩm quyền nội bộ của quốc gia đó, nên đòi hỏi các quốc gia không được can thiệp vào lĩnh vực hoạt động này.

Theo tuyên bố này, nội dung của nguyên tắc không can thiệp bao gồm:

- Cấm can thiệp vũ trang và những hình thức can thiệp hoặc đe doạ can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, hoặc nền tảng chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia khác.

- Cấm dùng biện pháp kinh tế, chính trị,... để bắt quốc gia khác phải phụ thuộc mình.

- Cấm tổ chức hoặc khuyến khích, giúp đỡ những phần tử hoạt động phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ quốc gia khác.

- Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở các quốc gia khác.

- Mỗi quốc gia đều có quyền tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá, không có sự can thiệp của nước ngoài.

Tóm lại, nguyên tắc không can thiệp ngày nay đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và được ghi nhận trong hầu hết văn bản pháp lý quốc tế hai bên cũng như nhiều bên.

c. Nguyên tắc dân tộc tự quyết

Theo bản tuyên bố năm 1970 về những nguyên tắc của Luật quốc tế nội dung của nguyên tắc dân tộc tự quyết được giải thích như sau:

- Tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định quy chế chính trị của mình, không có sự can thiệp của nước ngoài, và tự do quyết định sự phát triển về kinh tế, xã hội và văn hoá của dân tộc mình.

- Tất cả các quốc gia đều có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền này của các dân tộc.

- Tất cả các quốc gia đều có nghĩa vụ phải thúc đẩy các dân tộc thực hiện quyền tự quyết của họ.

- Cấm không được thống trị và bốc lột dân tộc khác. Phải xoá ngay lập tức chủ nghĩa thực dân.

- Các dân tộc thuộc địa có quyền sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đấu tranh giành độc lập.

Sau khi giành được độc lập, các dân tộc có thể thành lập quốc gia dân tộc độc lập của mình hay liên minh với quốc gia khác đã có hoặc các dân tộc khác cũng vừa mới giành được độc lập, dưới hình thức liên bang, hợp bang,... theo cách nhìn nhận của mình.

Các dân tộc dành được độc lập chính trị và đã thành lập được quốc gia độc lập của mình có thêm một cơ sở pháp lý một vũ khí có hiệu lực để cũng cố nền độc lập chính trị của mình và đấu tranh chống lại sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc nhằm giành được chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt với toàn bộ tài nguyên thiên nhiên của dân tộc và nhằm đấu tranh thiết lập một trực tự kinh tế quốc tế mới. 

d. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế

Theo tuyên bố năm 1970, nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế có những nội dung sau đây:

- Cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác, kể cả vi phạm biên giới quốc gia của nước khác, với giới tuyến ngừng bắn;

- Cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực chống lại nền độc lập chính trị của quốc gia khác;

- Cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực làm biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế;

- Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược;

- Cấm dùng vũ lực để ngăn cản các dân tộc thực hiện quyền dân tộc tự quyết cuả họ;

- Cấm tổ chức hoặc khuyến khích bọn phỉ, kể cả lýnh đánh thuê, để xâm lựơc lãnh thổ quốc gia khác;

- Cấm tổ chức hoặc khuyến khích ủng hộ hoặc tham gia vào những cuộc nội chiến hoặc khủng bố ở nước khác;

- Cấm dùng vũ lực để chiếm đóng lãnh thổ quốc gia khác một cách trái với Hiến chương Liên hợp quốc;

- Cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực để xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác; tức xâm lược vũ trang.

e. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình

Điều 2 khoản 3 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp của họ bằng những phương pháp hoà bình, làm sao để khỏi gây ra sự đe doạ cho hoà bình, an ninh thế giới và công lý.

Theo Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên bố năm 1970 nêu lên một số phương pháp hoà bình, đó là: đàm phán, điều tra, trung gian hoà giải, trọng tài, Tòa án thông qua cơ các quan hay hiệp định khu vực, hoặc bằng những phương pháp hoà bình khác mà các bên tự chọn. Rõ ràng, Luật quốc tế hiện đại chưa quy định hết những pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp quốc tế, mà mới chỉ nêu lên một số phương pháp thông dụng nhất và giành cho các quốc gia quyền tự lựa chọn những phương hoà bình khác mà, theo họ là hợp lý. 

Chỉ có một điều bắt buộc tất cả các quốc gia là: giải quyết tranh chấp quốc tế bằng những phương pháp hoà bình. Mọi phương pháp bạo lực, cưỡng ép doạ dẫm,... đều bị nghiêm cấm. Căn cứ vào tuyên bố năm 1970, một khi các bên tranh chấp đã sử dụng phương hoà bình này để giải quyết tranh chấp, nhưng chưa đạt được kết quả, thì phải tìm phương pháp hoà bình khác để giải quyết.

g. Nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế (Pacta Sunt Servanda)

Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda được gải thích cụ thể trong tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế có nội dung bao gồm các điểm sau:

- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ phải thực hiện một cách thiện chí những nghĩa vụ mà mình đã cam kết phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và Luật quốc tế hiện đại. Những nghĩa vụ đã cam kết ở đây chủ yếu gồm những nghĩa vụ phát sinh từ điều ước, và những và những nghĩa vụ phát sinh từ các nguồn khác, ví dụ, từ tập quán quốc tế. Nhưng tất cả những nghĩa vụ đó phải phù hơp với những điều quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc mà trước hết là những mục đích và nguyên tắc của tổ chức này. Như vậy, đối với những nghĩa vụ không phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc thì sẽ không được thi hành.

- Các quốc gia cũng sẽ không thi hành các cam kết bất bình đẳng. Lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy không ít những điều ước quốc tế không hợp pháp ví dụ hiệp ước Munich ngày 29/9/1938. Những điều ước như vậy không có giá trị pháp lý cho nên không thể ràng buộc các bên đã ký kết. Vì vậy các quốc gia không có nghĩa vụ phải thực hiện chúng.

- Nếu những cam kết phát sinh từ điều ước quốc tế trái với những cam kết theo Hiến chương Liên hợp quốc thì những cam kết theo Hiến chương Liên hợp quốc sẽ được ưu tiên thi hành. Việc tham gia Liên hợp quốc không cản trở các quốc gia ký kết những điều ước song phương, cũng như đa phương. Nhưng nội dung của những điều ước này không được trái với Hiến chương Liên hợp quốc(Điều 52 Hiến chương Liên hợp quốc). Do vậy, trong trường hợp những cam kết phát sinh từ điều ước quốc tế trái với nhưng cam kết theo Hiến chương Liên hợp quốc quy định, thì những cam kết theo Hiến chương Liên hợp quốc sẽ được ưu tiên thi hành một cách nghiêm chỉnh (Điều 103 hiến chương liên hợp quốc).

- Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda cũng không áp dụng với những điều ước khi ký kết vi phạm những quy định về thẩm quyền và thủ tục ký kết chúng. Trong thực tiễn, điều ước quốc tế, cam kết quốc tế cũng có thê không được thi hành khi những điều kiện để thi hành nó đã thay đổi về cơ bản (Rebus Sic Stantibus). Ví dụ như Hoa Kỳ đã hủy bỏ TTP khi Tổng thống mới đắc cử.

h. Các quốc gia có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau 

B.TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. Khái niệm Tư pháp quốc tế

Tư pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.

a. 09 chế định cơ bản mà Tư pháp quốc tế điều chỉnh là các quan hệ sau:

- Một là, địa vị pháp lý của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài.

- Hai là, về sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài.

- Ba là, về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

- Bốn là, pháp luật về thanh toán quốc tế

- Năm là, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng

- Sáu là, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

- Bảy là, thừa kế tài sản

- Tám là, lao động có yếu tố nước ngoài

- Chín là,về tố tụng dân sự quốc tế.

b. Đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế

Sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại. Tất cả các lĩnh vực quan hệ pháp lý giữa các quốc gia thuộc đối tượng điều chỉnh của Công pháp quốc tế nhưng những quan hệ pháp lý giữa công dân và pháp nhân phát sinh trong đời sống quốc tế thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài được khẳng định tại Điều 758 Bộ luật dân sự 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: “... Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.

Theo Điều 663 BLDS 2015 thì có 3 loại yếu tố nước ngoài mà một quan hệ dân sự có sự hiện diện của một trong ba loại yếu tố đó thì thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Đó là:

- Thứ nhất, chủ thể là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Thứ hai, khách thể của quan hệ pháp lý ở nước ngoài (ví dụ di sản thừa kế ở nước ngoài,..).

- Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài (hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Hoa Kỳ ...).

c. Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế

- Phương pháp xung đột: Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến một hay nhiều quốc gia khác nghĩa là liên quan đến các hệ thống pháp luật khác nhau. Vấn đề đặt ra là cần phải chọn luật pháp nước nào áp dụng để giải quyết quan hệ dân sự đã phát sinh. Việc chọn luật áp dụng phải căn cứ vào quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là loại quy phạm đặc thù của Tư pháp quốc tế. Như vậy, phương pháp xung đột là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật xung đột nhằm điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế.

- Phương pháp thực chất: Đây là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất. Khác với quy phạm xung đột, quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh và quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật cụ thể. Quy phạm pháp luật thực chất bao gồm: quy phạm thực chất thống nhất (được ghi nhận trong Điều ước quốc tế) và quy phạm thực chất thông thường (được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia).

d. Chủ thể của Tư pháp quốc tế

Chủ thể của Tư pháp quốc tế là bộ phận cấu thành cơ bản của quan hệ Tư pháp quốc tế, là thực thể đang hoặc sẽ tham gia trực tiếp vào các quan hệ Tư pháp quốc tế một cách độc lập có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định được bảo vệ theo các quy định của Tư pháp quốc tế và có khả năng độc lập chịu trách nhiệm pháp lý theo qui định của pháp luật đối với những hành vi do chủ thể đó gây ra.

Chủ thể của Tư pháp quốc tế bao gồm thể nhân, pháp nhân và nhà nước (vùng lãnh thổ). Thể nhân và pháp nhân là chủ thể cơ bản, nhà nước (vùng lãnh thổ) là chủ thể đặc biệt.

e. Nguồn của Tư pháp quốc tế

- Luật pháp của mỗi quốc gia

- Điều ước quốc tế

- Thực tiễn tòa án và trọng tài (án lệ)

- Tập quán

Nguồn của Tư pháp quốc tế mang hai tính chất: Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mang tính chất điều chỉnh quốc tế;  Luật pháp của mỗi quốc gia mang tính chất điều chỉnh quốc nội. Mối tương quan giữa 2 tính chất trên đây của nguồn tư pháp quốc tế thể hiện rõ từ Điều 664 đến Điều 670 v của Bộ luật dân sự 2015.

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

Máy ATM bitcoin đầu tiên tại Việt Nam và xu hướng giao dịch bitcoin ?


Máy ATM bitcoin đầu tiên tại Việt Nam và xu hướng giao dịch bitcoin ?


Chữ B in hoa trong B Coffee là viết tắt của bitcoin-một loại tiền điện tử đã làm thay đổi mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc. Bitcoin xuất hiện đầu tiên năm 2009, và người dùng có thể chuyển tiền trực tiếp cho nhau, không cần thông qua một đơn vị trung gian như ngân hàng.


Đi qua biển hiệu có chữ B treo trước căn nhà số 74 Bùi Viện, bạn nghĩ lại là một hình thức quảng cáo vô thưởng vô phạt của một quán cà phê nào đó. Nhưng đối với những ai hiểu chuyện, đây là biểu tượng khá thú vị, biểu tượng của tương lai.
Hoạt động trao đổi này được ghi lại trong một cuốn sổ cái công cộng (public ledger) gọi là blockchain. Đây cũng là nơi các thợ mỏ “đào” bitcoin và đưa những đồng bitcoin mới vào lưu thông. Từ khi thành lập đến nay, giá trị bitcoin liên tục tăng vọt. Tháng 6/2009 một bitcoin được định giá ở mức 0,0001 USD trong khi hiện tại đã hơn 2.000 USD.

Theo blogger Thomas Barrett, B Coffee sở hữu chiếc máy ATM bitcoin đầu tiên tại Việt Nam. Đây cũng là chiếc máy duy nhất hoạt động suốt 24/24 giờ. Với chiếc máy này, khách hàng cho tiền giấy vào để đổi lấy tiền điện tử bitcoin trong ví điện tử của mình, sau đó có thể mua bán hàng hóa dịch vụ như bất kỳ loại tiền tệ nào.


Dĩ nhiên ở B Coffee, khách hàng có thể dùng bitcoin để mua bia hay cà phê. Danny - người sở hữu B Coffee, tin rằng bitcoin không chỉ đơn giản là một sản phẩm mới.
“Tiền điện tử đang tạo nên những xáo trộn. 20 năm trước khi Internet xuất hiện, mọi người không biết họ có thể làm gì với Internet, nhưng rồi họ dần dần hiểu ra và hiện giờ không thể sống thiếu nó. Cuộc sống của họ xoay quanh Internet. Tôi cảm thấy bitcoin cũng sẽ như vậy. Cuộc sống của tôi cũng đang xoay quanh bitcoin”.
Chia sẻ lý do đặt máy ATM tại phố tây Bùi Viện, Danny cho biết ngày càng có nhiều khách du lịch nước ngoài sử dụng bitcoin như phương tiện giao dịch để tránh những khoản phí đắt đó nếu phải đổi tiền giấy hay biến động tỷ giá. Danny khẳng định không chỉ những vị khách này được lợi từ bitcoin mà có khả năng, cuộc sống của nhiều người Việt cũng đã có bước biến đổi quan trọng.
“Một phụ nữ người Việt đã từng bỏ 68.000 USD để mua bitcoin từ tôi”, Danny nhớ lại. “Lý do ư? Cô ấy muốn giữ một phần số tiền tiết kiệm bằng bitcoin. Thời điểm cô ấy mua vào chỉ khoảng 1.000 USD/bitcoin và giờ chắc người này đang tận hưởng trái ngọt”.
Danny cho biết thêm 8 hay 9 năm trước đây, mọi người hầu như không biết gì về bitcoin. 4 năm trước đây, một số người biết đến loại tiền này, đa số thì không; họ thường liên tưởng bitcoin với giới hacker hoặc ma túy. Nhưng gần đây, nhiều sàn giao dịch bitcoin đã mọc lên. Thái độ của mọi người với bitcoin đang thay đổi.


Xã hội không tiền mặt?

Ngoài việc được đánh giá là một hạng mục đầu tư tiềm năng, bitcoin có thể mở ra hướng mới cho ngành công nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tiếp cận những khu vực không có phương tiện thanh toán rõ ràng. Ở dạng bitcoin, giá hàng hóa Việt Nam cũng giống giá hàng hóa ở Anh hay Australia.
"Một khi mọi người chấp nhận thanh toán bằng bitcoin, bất cứ mặt hàng nào, từ cà phê đến thủ công mỹ nghệ đều có thể bán qua biên giới. Việc này tốt hơn cho người dân”, Danny cho biết.

Nhưng với các chính phủ thì sao? Làm thế nào để đối phó với một hệ thống mà vai trò của họ bị “phớt lờ” hoàn toàn?
Chính phủ Việt Nam cùng các bộ ngành liên quan đang gấp rút thực hiện đề án “Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo”, dự kiến sẽ kết thúc trước tháng 12 năm nay. Còn tại Trung Quốc, giao dịch bitcoin ở đây chỉ chiếm 10% tổng giao dịch trên toàn thế giới vào năm 2012, nhưng đã tăng lên tới gần 100%. Nhiều nhà đầu tư đã sớm nhìn thấy xu hướng này và đang tận hưởng thành quả.
Hiện tại, bitcoin đang phải đối mặt với nhiều sự chỉ trích, khi các chuyên gia tài chính dự đoán tốc độ tăng trưởng của đồng tiền này không bền vững, có thể dẫn tới sự sụp đổ tồi tệ bất cứ lúc nào. Một số người khác thì chỉ ra bitcoin không tồn tại ở trạng thái vật lý, có thể nhìn thấy hay sờ thấy, nên sẽ dễ bị hacker kiểm soát và đánh cắp.
Còn với Danny, chủ quán cà phê sở hữu máy ATM bitcoin đầu tiên tại Việt Nam, anh nhìn nhận bitcoin “là trường hợp nếu không thể đánh bại, thì hãy tham gia”.

Chế định Bitcoin trong ngành tài chính Nhật ?


Chế định Bitcoin  trong ngành  tài chính Nhật ?


Các công ty môi giới Nhật Bản cũng muốn tham gia vào thị trường tiền ảo, tự mình đào coin và đưa ra những định chế riêng.


Với việc người dân Nhật hăm hở mua và lưu hành tiền ảo bitcoin, SBI Holding, GMO Internet và các công ty chứng khoán trực tuyến đang muốn đào mỏ tiền ảo nhằm tạo nguồn doanh thu mới.
Đơn vị khai thác tiền ảo cần hệ thống máy chủ lớn để theo dõi tất cả các giao dịch trên blockchain (sổ cái). Nó cũng phải giải các thuật toán ngày càng phức tạp.

Nhật Bản đang muốn trở thành đầu tàu của ngành công nghiệp tiền ảo


Nhiều mỏ khai thác tiền ảo ngày nay được đặt tại Trung Quốc vì có giá điện rẻ nên thu lợi cao. Giờ đây, ngành tài chính Nhật Bản mong muốn tham gia vào đào tiền ảo và khâu quy định các loại tiền. Tức là họ muốn viết ra các định chế về tiền tệ mới.
Sự nổi lên của bitcoin lý giải vì sao ngành công nghiệp tài chính Nhật Bạn lại háo hức đến như vậy. Hôm 5/10, giá 1 bitcoin đã đạt 499.000 yên (khoảng 4.400 USD). Nhưng chẳng một ai trong số các ông lớn tài chính nước này có hệ thống đào bitcoin.
Nhưng trước khi vận hành máy đào tiền ảo, người khai thác mỏ cần một ngân hàng máy tính hiệu suất cao. Hãy hình dung sức cạnh tranh trên thị trường tiền ảo giống như cuộc chạy đua vũ trang, chỉ những người có đủ nguồn lực mới có thể tham gia.


Bitcoin được điều hành bởi khoảng một chục kỹ sư gọi là các nhà phát triển cốt lõi, những người thiết lập các quy tắc của đồng tiền. Người khai thác mỏ cũng có tiếng nói lớn trong lĩnh vực này.
Khoảng 70% mỏ khai thác bitcoin nằm ở Trung Quốc được kết hợp trong hệ thống chung như AntPool. Nó như hình thức các cá nhân cùng liên kết với nhau làm việc để khai thác các khối giúp thời gian giải mã thuật toán nhanh hơn.
Vào tháng 8, những bất đồng trong việc cố gắng tăng tốc giao dịch bitcoin đã dẫn tới việc một số thợ mỏ đã chia tách tiền ảo do lo ngại giảm lợi nhuận.
Tới tháng 9, thị trường nhận tin sốc khi giới chức Trung Quốc tuyên bố cấm tiền ảo bitcoin nhằm tránh tình trạng đầu cơ tràn lan vào các dự án gây quỹ tiền ảo ICO.
Giữa những rối ren đó, Nhật Bản bất ngờ vượt qua Trung Quốc để trở thành thị trường bitcoin lớn nhất dựa trên lượng tiền giao dịch.
Chủ tịch Yoshitaka Kitao của SBI nói: “Chúng tôi sẽ tìm cách giải quyết những vấn đề tồn đọng mà các nhà tổ chức Trung Quốc đã nhắc đến nhiều”.
GMO và DMM.com đã công bố kế hoạch tham gia thị trường khai thác tiền ảo vào đầu tháng 9, trong khi SBI và Monex Group cũng rục rịch nối gót.

Nên nhớ, GMO và SBI đã có sàn giao dịch tiền ảo, họ hy vọng sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp khi tham gia đào coin.
Theo startup Blockchain của Anh, trung bình thợ mỏ trên thế giới kiếm được 7,8 triệu USD mỗi ngày, gấp 10 lần so với 2 năm trước.
Hơn nữa, thế giới có hơn 1.000 loại tiền ảo và chúng được phục vụ theo nhiều mục đích, từ đầu tư, thanh toán cho đến tài chính. Các công ty chứng khoán trực tuyến kỳ vọng sẽ giữ vai trò quan trọng trong một thị trường có tốc độ tăng trưởng cao như vậy.
Bài toán đặt ra là làm sao quản lý hệ thống hiệu quả, giảm thiểu chi phí xuống thấp nhất. Tháng 8, SBI đã thành lập đơn vị khai thác tiền ảo mới với việc đặt cơ sở hạ tầng bên ngoài Nhật Bản nơi có giá điện rẻ. Trong khi đó, Monex lại có kế hoạch phát hành đồng tiền ảo riêng và tự khai thác nó.
GMO dự kiến đầu tư 10 tỷ yên (89 triệu USD) cho mỏ đào coin vào nửa đầu năm 2018. Công ty sẽ xây dựng hệ thống máy chủ đặc biệt ở Scandinavia vì ở đây có nguồn năng lượng tái tạo rẻ và thời tiết lạnh. Riêng DMM.com dự kiến đầu tư 10 tỷ yên cho công cuộc của mình.


(Theo Tri Thức Trẻ)