Công ty Luật Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 334 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Điện thoại: 0911666884- 0924.488.884.

Công ty Đấu giá Kim Trọng Hùng Kính chào Các bạn

Địa chỉ: 07 Khúc Hạo, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng

Kim Trọng Hùng Group Kính chào Các bạn

Đồng sáng lập: LS Vũ Trọng Kim và LS Nguyễn Cao Hùng. Website:luatkimtronghung.com.

Luật sư Vũ Trọng Kim-CT Hội cựu TNXP

Ủy viên trung ương ĐCS khóa VIII, IX, X, XI. Đại biểu Quốc hội khóa X, XI, XIII, XIV.

Luật sư Nguyễn Cao Hùng-Giảng viên thỉnh giảng Luật Đầu tư

Tác giả sách: 200 câu hỏi đáp về Khiếu nại, tố cáo. Đồng tác giả sách: Bình luận KH BLTTHS 2015-XNB CAND

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Tranh chấp Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( BCC: Business Cooperation Contract ):

Tranh chấp Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( BCC: Business Cooperation Contract ):


Đề: Một công ty A - nhà thầu chính đang thi công dự án xây dựng cầu đường ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, thì người đại diện trước pháp luật- giám đốc công ty bị đi tù ( vì một vụ án khác), do đó dự án bị ngưng trệ một thời gian dài. Chỉ huy trưởng công trình này là ông Xa Văn Công (thường trú ở tỉnh Hòa Bình) đã bàn với bạn là ông Trần Văn Vinh ( thường trú ở tỉnh Điện Biên) tìm kiếm đối tác có năng lực để hợp tác thay thế. Ông Vinh giới thiệu ông Vương Văn Ba Giám đốc công ty Cổ phần xây dựng Hương Hà ( có trụ sở ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội ) cho ông Công rằng đây là nhà thầu có kinh nghiệm & năng lực tài chính, đảm bảo thay thế gói thầu này. Tin lời ông Vinh, ông Công đã thống nhất với ông Vinh & ông Ba cùng nhau hợp tác để tiếp tục thực hiện dự án này, trên doanh nghĩa mượn pháp nhân công ty Hương Hà để ký với ban quản lý dự án đường Nam Trà My-Trà Bồng, tỉnh Quảng Nam. Thống nhất chia lợi nhuận sau thuế làm 3 phần cho ông Công, ông Vinh và công ty Hương Hà.


A. Khái niệm hợp đồng BCC:

I. Định nghĩa BCC:

Hợp đồng Hợp tác kinh doanh BCC nhờ có những ưu điểm nên thường được áp dụng trong các lĩnh vực như: Kinh doanh BĐS; Dịch vụ Viễn Thông; Khai thác, chế biến Dầu khí và khoáng sản;...

Về bản chất đó là một hình thức đầu tư trực tiếp, là sự thỏa thuận dân sự ( hợp đồng dân sự) của các nhà đầu tư để cùng nhau góp vốn; cùng nhau quản lý; cùng phân chia lợi nhuận và cùng gánh chịu rủi ro ( nếu có), mà không phải thành lập pháp nhân mới ( theo LDN).

Có thể định nghĩa theo Khoản 16 Điều 3 Luật đầu tư 2005 như: "16. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.".

Hay căn cứ theo điều 9 Nghị định 108/2006/NĐ-CP:
" Điều 9. Hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh
1. Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí và một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau để tiến hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật có liên quan.
4. Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh. 
5. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh."

Theo Luật đầu tư 2014 ( hiệu lực 01/7/2014):
" Điều 3. Giải thích từ ngữ
9. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế.
Điều 28. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC
1. Hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
2. Hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật này.
3. Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận.
Điều 29. Nội dung hợp đồng BCC
1. Hợp đồng BCC gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng; địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án;
b) Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh;
c) Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên;
d) Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng;
e) Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng;
g) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
2. Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
3. Các bên tham gia hợp đồng BCC có quyền thỏa thuận những nội dung khác không trái với quy định của pháp luật."

II. Ưu điểm của BCC:

- Các bên chỉ thỏa thuận thống nhất thành lập ban điều phối chỉ huy mà không thành lập pháp nhân mới nên: Tiết kiệm thời gian, công sức nếu thành lập pháp nhân mới và chi phí vận hành doanh nghiệp mới. Khi kết thúc dự án thì không phải làm thủ tục giải thể doanh nghiệp.
- Hỗ trợ điểm yếu với nhau, " đôi bên cùng có lợi" như kinh nghiệm, vốn, kỹ thuật, công nghệ,..
- Nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập để chủ động thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình mà không bị ràng buộc bởi quy tắc " số đông" trong quản lý , từ đó NĐT như là chủ nợ và chỉ là đầu tư gián tiếp. Ví dụ, trong dự án BĐS, các nhà đầu tư tham gia BCC và nhận lợi nhuận bằng căn hộ thì có thể bán ngay cổ phần của mình mà không phụ thuộc vào đối tác đứng pháp nhân chính.
- Thích hợp cho các nhà đầu tư trực tiếp tư nhân, các dự án đầu tư đơn lẻ có thời hạn ngắn như: Kinh doanh BĐS, Khai thác-chế biến khoáng sản, dầu khí; dịch vụ Viễn Thông- CNTT;..
- Thích hợp với các nhà đầu tư nước ngoài vì được pháp luật đầu tư bảo vệ nhờ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

III. Nhược điểm BCC:

- Do không thành lập pháp nhân mới, mà mượn tư cách pháp nhân ( GPKD, Con dấu, chữ ký) của một bên tham gia, nên khó khăn trong việc:
+ Thỏa thuận giữ con dấu, chữ ký, GPDK;
+ Khó khăn trong ý chí đối ngoại; quản lý; phân chia lợi nhuận theo công sức, tỷ lệ góp vốn,..Từ đó, không công bằng với NĐT bỏ nhiều vốn, công sức như theo nguyên tắc của doanh nghiệp mới;
- Do pháp luật chưa có quy định cụ thể trách nhiệm của các bên BCC và bên thứ ba, nên khi một bên ( thường là bên pháp nhân đại diện) giao kết với bên thứ ba để thực hiện các hợp đồng phụ cụ thể để phục vụ cho hợp đồng BCC chính; hoặc lợi dụng danh nghĩa BCC để ký hợp đồng với bên thứ ba ngay tình nhằm lừa đảo, trục lợi,..; hoặc kết hợp với bên thứ ba để móc ngoặc nhằm chiếm đoạt tài sản, lợi nhuận của các bên còn lại trong BCC;...
- Hình thức này chỉ áp dụng cho các dự án có thời gian ngắn.
- Đối với NĐT trong nước thì chỉ áp dụng pháp luật dân sự khi giải quyết tranh chấp mà chưa có chế định riêng.

B. Giải quyết tranh chấp BCC:

1. Xác định tranh chấp:
- Hợp đồng dân sự;
- Loại HĐ HTKD (BCC);
- Đầu tư trực tiếp giữa các bên ( tổ chức hoặc cá nhân; trong nước hoặc nước ngoài);
- Theo mục đích BCC ? ( KD BĐS; Thăm dò-khai thác dầu khí, khoáng sản; dịch vụ Viễn thông-CNTT;..). 

2. Các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng:
- Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
- Bộ luật dân sự 2005;
- Luật đầu tư (2005&2014);
- Luật doanh nghiệp ( 2005&2014);
- Luật chuyên ngành ( KD BĐS; Khoáng sản; CNTT-Viễn thông;..);
- Bộ luật hình sự: Các điều 139 (lừa đảo chiếm đoạt TS); 140 (lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt TS); 278 (tham ô tài sản) & điều 280 ( lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt TS);..

3. Thủ tục tố tụng (BLDS2004, SĐBS 2011):
Nếu trong BCC có điều khoản trọng tài ( xác định cụ thể; hoặc không cụ thể). Trương hợp không có, theo thẩm quyền của Tòa án thì áp dụng BLTTDS2004 các điều sau:

3.1. Quyền khởi kiện vụ án: Điều 161
"Điều 161. Quyền khởi kiện vụ án
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình."

3.2. Thời hiệu khởi kiện: 
Theo điểm a K3 điều 159 & điều 160 để áp dụng chương IX từ điều 154-162 & điều 136 ( thời hiệu tuyên bố GDDS vô hiệu) ; điều 427 BLDS2005 ( thời hiệu khởi kiện về HĐDS).
"Điều 159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
3. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
Điều 160. Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu
Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự. "

3.3. Thẩm quyền giải quyết của TA:
- Tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án: K3 điều 25
"Điều 25. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
3. Tranh chấp về hợp đồng dân sự."
- Khoản 1 điều 29: Tranh chấp KDTM: các điểm m, o:
" m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng" và " o) Thăm dò, khai thác"
- Điểm b, khoản 1 điều 33: Thẩm quyền của TA cấp huyện;
- Điểm c, khoản 1 điều 35: Thẩm quyền theo lãnh thổ, nơi có BĐS tranh chấp;
- Khoản 1 điều 36: Theo sự lựa chọn của nguyên đơn: điểm g " nơi thực hiện hợp đồng";
điểm b " nơi chi nhánh".

3.4. Xác định tư cách tham gia tố tụng:
 Đương sự (nguyên đơn; bị đơn; người có QLNV liên quan); người đại diện ( theo pháp luật & theo ủy quyền) & người bảo vệ Q và Lợi ích hợp pháp của đương sự (luật sư); .. cụ thể chương VI từ điều 56-78.
- Năng lực pháp luật & năng lực hành vi: Điều 57 , chú ý năng lực pháp luật với tổ chức ( GPKD; GXN con dấu; người đại diện hợp pháp; điều lệ) và năng lực hành vi ( dưới 6 tuổi; từ 6-15; 15-18 & trên 18 tuổi).
- Quyền và nghĩa vụ của đương sự ( Đ 58,59,60,61); của người đại diện ( Đ 74); của người bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp ( Đ 64); Chú ý khi ls tham gia với tư cách là đại diện theo ủy quyền thì quyền & nghĩa vụ sẽ ntn so với người bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp.

3.5. Về chứng minh- chứng cứ trong KDTM:
Áp dụng chương VII các điều từ Đ79-Đ 98 & Đ418; Nghị quyết 04/2012 và Thông tư liên tịch 02/2014.
Đặc biệt Đ80, Đ81 những tình tiết sự kiện không phải chứng minh, chứng cứ & Đ418 quy định tất cả các tài liệu, chứng cứ tiếng nước ngoài đều phải được dịch sang tiếng Việt ( công chứng viên thuộc cơ quan Tư pháp nước ngoài, xác nhận của lãnh sự nước ngoài); và hợp thức hóa lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài.
=> Vấn đề thu thập chứng cứ & đánh giá chứng cứ.

3.6. Các vấn đề liên quan khác:
- Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu cần thiết): Đ 99; Đ 102; Đ 108; Đ 109; Đ 112; Đ 113; Đ 114 & đặc biệt Đ 120 là phải đặc cược một tài sản tương đương với giá trị tài sản đó khi thực hiện biện pháp này.
- Về chi phí cho luật sư:  K2 điều 144 làm căn cứ để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng ( bao gồm chi phí sinh hoạt hợp lý và thù lao của luật sư).
- Về nghĩa vụ nộp tiền án phí, lệ phí sơ thẩm: Đ 130; K1 &K3 Điều 131; Và pháp lệnh lệ phí, án phí tòa án; Nghị quyết 01/2012 ngày 13/6/2012 của TANDTC hướng dẫn một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí tòa án. Giải thích cho khách hàng nộp tiền tạm ứng, nếu thắng sẽ lấy lại còn thua thì phải nộp thêm án phí cho đủ theo bản án.
- Về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện ( nếu có): Điều 218, khách hàng có thể thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện kể từ lúc thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử sơ thẩm tại tòa. 
- Yêu cầu phản tố: áp dụng Đ176 về quyền yêu cầu phản tố & điều 219 về thay đổi địa vị tố tụng. Về nguyên tắt yêu cầu phản tố không trùng với đề nghị nguyên đơn; bù trừ nghĩa vụ. Trường hợp không xác định được thì áp dụng NQ 05/2012.
- Công nhận sự thỏa thuận đương sự: Đ220, trong trường hợp hòa giải thành và có hiệu lực trong sau 7 ngày, không bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
- Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ: Đ 305 BLDS2005;
- Hợp đồng dân sự: Từ Đ388; Đ389; Đ401; Đ402; Đ405: Đ406 BLDS2005;

4. Hợp đồng BCC có yếu tố nước ngoài:
- Về quan hệ dân sự và áp dụng pháp luật: điều 758, điều 759, xem xét việc áp dụng pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước ngoài .
- Về năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài: Điều 765, pháp nhân nước ngoài phải cung cấp giấy tờ xác nhận lý lịch công ty và xác nhận người đại diện công ty; xác nhận con dấu công ty. 
- Nếu có yếu tố nước ngoài: Căn cứ điều 769 BLDS2005 về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, liên quan BĐS, theo K2 thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Áp dụng chế định hợp đồng dân sự cho BCC.
- Hình thức hợp đồng dân sự: điều 770
- Thẩm quyền TAND cấp tỉnh ( Tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp tỉnh;K3 Điểu 33; Đ c K1 Điều 34). Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong tố tụng dân sự căn cứ vào K1 Đ405; Đ406; K1 Đ408; Đ409; Đ410. 

5. Hợp đồng BCC vô hiệu:
 5.1. Vô hiệu theo điều 410 BLDS2005: 
Vô hiệu theo điều 127 - đến điều 138 BLDS; hay vô hiệu theo hợp đồng chính vô hiệu kéo theo HĐ phụ vô hiệu ( trừ GD Đảm bảo).
Trường hợp vô hiệu theo điều 127, tức là hợp đồng không tuân thủ theo điều 122 BLDS về:
- Năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia:
+ Về ủy quyền: không ủy quyền ( NQ 04/2014); Vượt quá ủy quyền ( điều lệ; giấp phép; BB HĐQT; giấy UQ của người đại diện;...); Quá thời hạn ủy quyền; ...
Trường hợp NH vượt quá cho vay ( bên thực hiện không vô hiệu vì: đã nhận tài sản; đã trả lãi;..); vượt quá bảo lãnh (L/C: vô hiệu phần vượt quá).
+ Hộ gia đình: GDDS thì chủ hộ có quyền; nhưng GD BĐS thì đủ từ 15 tuổi có quyền.
+ Chủ thể phụ thuộc: Các chi nhánh, PGD mặc dầu có con dấu, giấy phép riêng nhưng vẫn phụ thuộc công ty chính.
- Mục đích và nội dung HĐ vi phạm điều cấm của pháp luật; hoặc trái đạo đức xã hội:
+ Ví dụ luật KD BĐS không cho phép huy động vốn khi tổ chức chưa hoàn thành CSHT, nhưng vẫn ký BCC để huy động vốn và trả lợi tức bằng căn hộ là vô hiệu.
+ Thỏa thuận phạt HĐ là 20%, nhưng LTM quy định 8%, do đó vô hiệu phần vượt quá.
- Bị ép buột, lừa dối:
- Vô hiệu về hình thức ( nếu pháp luật có quy định): thường là hợp đồng yêu cầu phải công chứng.

5.2. Vô hiệu theo điều 411 BLDS2005: 
- Khách quan: có đối tượng không thể thực hiện được ngay khi ký HĐ mà các bên tham gia đều không biết;
- Chủ quan: có bên biết có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không báo : thì phải bồi thường.
- Vô hiệu từng phần: Một vài đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại vẫn có giá trị.

5.3. Các điểm cần chú ý khi HĐ vô hiệu:
- Về thời hiệu tuyên vô hiệu: Điều 136 BLDS, là 02 năm kể từ ngày xác lập ( nhưng không áp dụng với HĐ vi phạm điều cấm của PL; đạo đức xã hội & HD giả tạo );
- Việc tuyên vô hiệu rất khó khăn:
+ Giải quyết hậu quả và xác định  lỗi; thiệt hại, bồi thường;
+ Thường dựa vào lẽ công bằng ( án lệ).
- Về án phí, lệ phí khi tuyên vô hiệu:
+ Án phí không có giá ngạch: K3 Đ 17 NQ 01/2012: bị đơn chịu 200.000đ;
+ Án phí có giá ngạch: Theo K2 Đ 27 pháp lệnh án phí, lệ phí 2005 thì bị đơn chịu toàn bộ; Tuy nhiên, điểm b, K3 Đ 17 NQ 01/2012  thì " Người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại", như vậy có trường hợp cả Nguyên đơn & bị đơn đều chịu.









Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Một số câu hỏi tình huống về luật luật sư

Một số câu hỏi tình huống về luật luật sư

1. So sánh Luật sư và Luật gia?
Hai thuật ngữ “luật gia” và “luật sư” hiện nay ở Việt Nam vẫn còn được hiểu khác nhau và còn có sự nhầm lẫn. Nguyên nhân của hiện tượng này một mặt là do hệ thống luật pháp nói chung và các nghề nghiệp về tư pháp ở Việt Nam nói riêng chưa phát triển; mặt khác có hiện tượng này cũng một phần do việc dịch các thuật ngữ có liên quan trong ngôn ngữ nước ngoài chưa chuẩn xác, chưa thống nhất.
Theo cách giải thích của nhiều từ điển và qua tìm hiểu thực tiễn của một số nước, chúng tôi thấy có thể hiểu như sau:
- Jurist = luật gia, là người có kiến thức về pháp luật, chuyên gia luật. Có thể hiểu đó là tất cả những người tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật trở lên); hoặc vận dụng ở ta có thể bao gồm cả những người tuy không có bằng cử nhân luật, nhưng có kiến thức về pháp luật và đang hoạt động trên các lĩnh vực pháp luật, tư pháp, trong đó có cả các luật sư. Hội viên Hội luật gia Việt Nam được hiểu theo nghĩa này.
- Lawyer = luật sư, là luật gia được đào tạo thêm về kỹ năng hành nghề, được gia nhập Đoàn luật sư, qua đó được công nhận là luật sư để hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp luật hoặc một trong hai lĩnh vực này.
Tương đương với 2 thuật ngữ tiếng Anh “jurist” và “lawyer” là 2 thuật ngữ trong tiếng Pháp: juriste (luật gia) và avocat (luật sư, trạng sư).
Ở Việt Nam luật sư được hiểu theo quy định của Luật Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 2). Điều kiện hành nghề luật sư là được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Như vậy, ở nước ta luật sư có thể là thành viên Hội luật gia, nhưng luật gia thì chưa hẳn đã phải là luật sư. Sự khác biệt đó còn thể hiện ở các điểm sau đây:
- Một trong những tiêu chuẩn quan trọng, không thể thiếu đối với luật sư là phải được đào tạo nghề sau khi đã tốt nghiệp đại học luật.
- Chức năng của luật sư là cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, bao gồm việc tham gia tố tụng để bào chữa hoặc biện hộ cho bị can, bị cáo, đương sự; tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức và làm các dịch vụ pháp lý khác.
- Sứ mệnh xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà luật sư gây ra cho khách hàng; trách nhiệm vật chất của luật sư là trách nhiệm vô hạn.
- Ngoài việc phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật, luật sư còn phải tuân theo các quy tắc hành nghề, trong đó có các quy tắc đạo đức nghề nghiệp do tổ chức hiệp hội luật sư ban hành.
- Nguồn thu nhập của luật sư là tiền thù lao do khách hàng trả.




2. Vai trò về mặt xã hội của Luật sư?
a. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước Toà
Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự trước Toà không phải ở mọi lúc, mọi nơi được tôn trọng. Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển thậm chí không có nghề luật sư.
Nghề luật sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ, phát triển. Để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau. Ở Nhật Bản trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao sự hoà thuận, tránh cưỡng ép. Các quy phạm với chế tài là sự hổ thẹn và trách cứ đủ để duy trì trật tự xã hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đặc biệt là sau đại chiến thế giới lần thứ II vai trò của pháp luật đã được thừa nhận trong xã hội Nhật Bản, nghề luật sư đã được hình thành và ngày càng phát triển.
Tuỳ theo quốc gia khác nhau mà pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau. Ở Pháp trong một thời gian dài pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Pháp luật chỉ tồn tại ở khía cạnh luật nội dung mà không có luật hình thức, luật nội dung không có bảo đảm của luật tố tụng, pháp luật tồn tại bên ngoài Toà án, bên ngoài các vụ kiện. Cái mà được gọi là pháp luật lại đối lập với tư pháp và không được mọi người quan tâm. Các nhà doanh nghiệp chỉ quan tâm đến khía cạnh thương mại của một hợp đồng mà không quan tâm đến khía cạnh pháp lý của nó. Pháp luật chưa được xã hội tôn trọng
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng. Sự đa dạng này xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống pháp luật của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật sư nhưng đều có chung một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư.
Tại Việt Nam, luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và gốp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc sống hàng ngày công dân thường có nhiều mối quan hệ với nhau và với cơ quan, tổ chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn, động chạm đến quyền lợi của mỗi bên. Đặc biệt là những vấn đề phải giải quyết bằng con đường Tòa án mà ở đây những quyền cơ bản của công dân dễ bị đụng chạm nhất. Thường công dân bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, là người giúp cho công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật, nhất là những vụ việc ở Tòa án.
Trong thời gian qua, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
b. Vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
Luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ. Để công chúng, các nhà kinh doanh tuân thủ pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những người hành nghề luật sư phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề luật sư phải được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã hội và giới kinh doanh. Ngoài những quy định trên còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật.
Bên cạnh hoạt động tranh tụng, luật sư còn nhận làm tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước bằng hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý. Luật sư thực hiện tư vấn trong nhiều lĩnh vực pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật, soạn thảo di chúc, hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán bất động sản, soạn thảo giấy tờ pháp lý của công ty... Lĩnh vực hoạt động soạn thảo văn bản có liên quan đến pháp luật là một lĩnh vực hoạt động quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư. Luật sư còn hướng dẫn khách hàng về những vấn đề có liên quan đến pháp luật, quyền của họ được pháp luật quy định và cách xử sự theo đúng pháp luật. Việc tư vấn pháp luật cho khách hàng của luật sư góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ quan có thẩm quyền.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
c. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng xã hội.
Thông qua tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình, luật sư có trách nhiệm tham gia tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Luật sư đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát triển xã hội. Cùng với thời gian, đội ngũ luật sư Việt Nam dần dần khẳng định rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu, rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở Việt Nam.
3. Phân tích các hành vi bị cấm khi hành nghề Luật sư?
Theo quy định của pháp luật tố tụng, quyền của luật sư trong hành nghề được mở rộng đáng kể, Luật Luật sư cũng tạo cơ chế thuận lợi cho luật sư trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, Luật Luật sư cũng tạo cơ chế pháp lý để tăng cường trách nhiệm pháp lý, nâng cao kỷ luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề. Đây cũng là định hướng quan trọng đối với việc xây dựng Luật Luật sư. 
Các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư được quy định tại Điều 9, Chương “Những quy định chung” của Luật Luật sư. Luật sư thực hiện một trong các hành vi bị nghiêm cấm thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật còn tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự. Trong các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư quy định tại Điều 9 của Luật Luật sư có thể phân thành ba nhóm sau đây:
- Nhóm thứ nhất liên quan đến những nghĩa vụ cơ bản của luật sư trong hành nghề. Những nghĩa vụ cơ bản này không những được pháp luật quy định mà còn là một nội dung quan trọng của quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, cụ thể là mâu thuẫn quyền lợi (điểm a khoản 1), bí mật thông tin (điểm c khoản 1), trung thực, bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng (điểm d và đ khoản 1).
- Nhóm thứ hai liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng. Những quy định cấm này nhằm bảo đảm hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo đúng pháp luật, góp phần phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực trong thi hành công vụ (điểm b và điểm c khoản 1).
- Nhóm thứ ba liên quan đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (điểm g khoản 1).
Cùng với việc quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với luật sư, khoản 2 Điều 9 cũng nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư. Quy định này nhằm tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để luật sư thực hiện được đầy đủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hành nghề. Đây cũng là một trong những điểm tiến bộ của Luật Luật sư.




4. Tại sao Luật luật sư cho phép hoạt đồng hành nghề tổ chức Luật sự được lựa chọn nhiều loại hình?
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Quy định này về cơ bản là phù hợp với thông lệ nghề luật sư và có tính khả thi trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển của nghề luật sư. Tuy nhiên, với yêu cầu mở rộng, phát triển dịch vụ pháp lý của luật sư trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu sắc và mạnh mẽ hiện nay, thì quy định về hình thức hành nghề như Pháp lệnh luật sư đã tỏ ra không còn phù hợp. Thực tiễn cho thấy, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp đang thực sự có nhu cầu tuyển dụng luật sư làm việc cho mình với tư cách là luật sư riêng (in-house lawyer) để giúp giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan. Ngoài ra, xét về tính chất, thì nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư có thể tự do lựa chọn hình thức hành nghề phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của mình. Trong hành nghề, luật sư hoạt động độc lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới còn tồn tại cả hình thức luật sư hành nghề với tư cách cá nhân.
Từ thực tiễn nói trên, Luật Luật sư mở rộng hình thức hành nghề của luật sư. Theo đó, luật sư có thể lựa chọn một trong các hình thức hành nghề sau đây:
- Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001);
- Hành nghề với tư cách cá nhân.






5. Căn cứ và phương thức tính thù lao của Luật sư?
Quy định về thù lao và chi phí luật sư, về cơ bản, phù hợp với những nguyên tắc của Bộ luật dân sự về tiền công trong hợp đồng dịch vụ. Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức, cơ quan và được nhận một khoản thù lao, được thanh toán các chi phí hợp lý khác do người sử dụng dịch vụ trả. Như vậy, thù lao là khoản tiền bù đắp lại công sức mà luật sư bỏ ra để thực hiện dịch vụ pháp lý. Chi phí luật sư là những khoản tiền mà luật sư phải chi trả trong khi thực hiện dịch vụ pháp lý như: tiền tàu xe, lưu trú, các chi phí hợp lý khác. Khách hàng của luật sư phải trả thù lao và thanh toán chi phí thực tế cho luật sư khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư.
Việc tính toán thù lao được dựa trên các căn cứ và phương thức cụ thể. Các căn cứ và phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55 Luật Luật sư phù hợp với thông lệ nghề nghiệp luật sư được pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định. Về cơ bản, việc tính mức thù lao được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa Văn phòng luật sư, Công ty luật, hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân (người cung cấp dịch vụ pháp lý) với khách hàng (người sử dụng dịch vụ pháp lý) và được thể hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, nguyên tắc thoả thuận về thù lao chỉ được áp dụng đối với vụ việc tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý khác, vụ việc dân sự.
Thù lao luật sư chỉ áp dụng đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ hợp đồng lao động thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.
5.1. Căn cứ tính thù lao
Các căn cứ tính thù lao được quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Luật sư, bao gồm các căn cứ sau đây:
+ Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý;
+ Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;
+ Kinh nghiệm và uy tín của luật sư.
Các căn cứ để tính mức thù lao có tính chất định hướng, là cơ sở để khách hàng và Văn phòng luật sư, Công ty luật hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thoả thuận phù hợp với nội dung, tính chất của từng vụ việc cụ thể.
5.2. Phương thức tính thù lao
5.2.1. Phương thức tính thù lao theo giờ làm việc
Thông thường, phương thức tính thù lao theo giờ làm việc của luật sư được áp dụng trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Với phương thức tính thù lao này, việc tính toán cụ thể về thời gian luật sư bỏ ra để thực hiện công việc là căn cứ quan trọng để tính mức thù lao.
5.2.2. Phương thức tính thù lao trọn gói
Phương thức tính thù lao trọn gói là việc tính một mức thù lao cố định cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc theo yêu cầu của khách hàng. Việc thoả thuận về mức thù lao cố định thường được căn cứ vào nội dung, tính chất công việc cũng như tổng số thời gian dự tính hoàn thành công việc. Phương thức này thường được áp dụng trong các lĩnh vực tham gia tố tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
5.2.3. Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án
Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án thường được áp dụng trong lĩnh vực tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự, kinh tế, giao dịch về bất động sản hay tư vấn pháp luật trong các dự án. Thực chất đây cũng là phương thức tính thù lao theo một mức cố định nhưng được căn cứ vào giá ngạch của vụ kiện hoặc giá trị của giao dịch.
5.2.4. Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố định
Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố địnhđược sử dụng khá phổ biến tại các nước có nghề luật sư phát triển. Tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chịu trách nhiệm về những vấn đề pháp lý liên quan đến khách hàng của mình. Khách hàng phải trả một khoản thù lao cố định đã được thoả thuận theo định kỳ cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân bất kể trong thời gian đó khách hàng có cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý của luật sư hay không. Phương thức này cũng có thể áp dụng đối với trường hợp luật sư có hợp đồng dài hạn để tư vấn pháp luật cho một doanh nghiệp.
Thông thường, trong văn bản thoả thuận giữa luật sư và khách hàng không cần thiết phải liệt kê toàn bộ những căn cứ làm cơ sở cho việc tính thù lao mà chỉ cần nêu phương thức tính thù lao (tính theo giờ, tính cố định hay xác định những yếu tố cần chú ý khi tính thù lao). Khi có những sự kiện mới phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc ảnh hưởng đến mức thù lao đã thoả thuận thì luật sư cần thông báo bằng văn bản cho khách hàng và trong trường hợp cần thiết, luật sư và khách hàng có thể thoả thuận mức thù lao mới phù hợp.
5.3. Thù lao và chi phí luật sư trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý
Vấn đề về thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý được quy định tại Điều 56 của Luật Luật sư như sau:
1) Mức thù lao được thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; đối với vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì mức thù lao không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định.
2) Tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Theo quy định trên thì mức thù lao, chi phí của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý được tính trên cơ cở thoả thuận giữa khách hàng và luật sư trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với các vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì sự thoả thuận đó không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định. Mức thù lao này quy ra giờ không được vượt quá 100.000đ/1 giờ làm việc của luật sư (Điều 10 Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư).
Ngoài mức thù lao đã thoả thuận, luật sư được nhận thêm các chi phí như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý. Các chi phí này cũng do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
5.4. Thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
Theo Điều 11 của Nghị định số 28/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Luật sư thì thù lao, chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng được quy định như sau:
Đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức thù lao được trả cho luật sư là 120.000đ/1 ngày làm việc của luật sư.
Thời gian làm việc của luật sư bao gồm:
a) Thời gian gặp gỡ bị can, bị cáo;
b) Thời gian thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa;
c) Thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng;
d) Thời gian tham gia phiên toà; 
Thời gian làm việc của luật sư phải được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án xác nhận. 
Ngoài khoản tiền thù lao, trong quá trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên toà, luật sư được thành toán chi phí tiền tàu xe, lưu trú theo quy định hiện hành về chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác trong nước.
Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư tham gia tố tụng có trách nhiệm thanh toán theo đúng quy định của nhà nước về thù lao và các khoản chi phí nêu tại khoản 1, khoản 3 Điều này. Nguồn kinh phí chi trả được dự toán trong ngân sách hàng năm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài khoản thù lao và chi phí do cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán, luật sư không được đòi hỏi thêm bất cứ khoản tiền nào từ bị can, bị cáo hoặc thân nhân của họ.
Thực tế cho thấy, thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng hay thời gian tham gia phiên toà có thể được xác nhận một cách dễ dàng, nhưng việc xác nhận thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa lại gặp khó khăn. Vì vậy, luật sư cần lưu giữ tất cả tài liệu có liên quan làm cơ sở cho cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng xác nhận thời gian làm việc của luật sư. Luật sư có thể xin xác nhận của người có thẩm quyền sau đây về thời gian làm việc:
- Quản giáo hoặc người quản lý trại giam về thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo tại trại tạm giam;
- Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án về thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa, thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại Toà án;
- Chủ toạ phiên toà về thời gian luật sư tham gia phiên toà.
Bên cạnh đó, khi tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư cần lưu ý về cách thức thanh toán thù lao như sau:
Đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư thì luật sư đó không được trực tiếp nhận thù lao từ cơ quan tiến hành tố tụng mà phải thông qua tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề. Tổ chức hành nghề luật sư nhận thù lao phải tuân theo các quy định của pháp luật về kế toán. Trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thì được quyền nhận thù lao trực tiếp từ cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư nhận thù lao cũng phải chấp hành đúng quy định của pháp luật về thuế, tài chính và thống kê.


6. Thực trạng và phương hướng phát triển đội ngũ Luật sư hiện nay?
1. Tính đến thời điểm hiện nay, trong cả nước đã thành lập 62/63 Đoàn luật sư, với gần 6.000 luật sư, hơn 2000 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 2.000 tổ chức hành nghề luật sư. Trong gần 9 năm (2001-2010), số lượng luật sư đã tăng 300% so với trước khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 có hiệu lực. Diện mạo luật sư đã có sự thay đổi đáng kể, cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang từng bước được nâng cao (96,95%) luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên; 65,8% luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư).
Theo số liệu thống kê trong 4 năm (2005-2008), các luật sư đã tham gia tố tụng hơn 60.000 vụ án hình sự, 30.000 vụ việc về dân sự, gần 2.000 vụ việc về kinh tế, 800 vụ việc về lao động, 1.000 vụ việc về hành chính; gần 90.000 vụ việc về tư vấn pháp luật; 25.000 vụ việc về dịch vụ pháp lý khác.
Bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, đội ngũ luật sư không những đã có những đóng góp tích cực cho công tác tư pháp nói chung, hoạt động xét xử nói riêng, mà còn là nhân tố hỗ trợ phát triển các quan hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư, các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vì vậy, hoạt động của luật sư được xem là loại hình dịch vụ trí tuệ cao cấp, cần tiếp tục chiếm lĩnh thị trường trong nước và mở rộng ra thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, luật sư Việt Nam đang có được triển vọng và cơ hội lớn, một số luật sư, tổ chức hành nghề luật sư của Việt Nam đã tạo được tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động luật sư vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, cụ thể như sau:
Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có ở nước ta so với dân số còn rất thấp (1 luật sư/14.500 người dân, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250). Số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Số lượng luật sư cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, chỉ khoảng 20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư không đủ để bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư (án chỉ định) làm nhiều vụ án phải tạm hoãn, kéo dài, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Sự thiếu vắng luật sư trong các vụ án hình sự đã không bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn hạn chế, yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội . Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư chưa cao, chưa có cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Số luật sư có khả năng và kiến thức về tranh tụng quốc tế còn rất hạn chế, nên trong các tranh chấp thương mại với nước ngoài, phía Việt Nam vẫn chủ yếu phải thuê luật sư nước ngoài. Việc thuê luật sư nước ngoài khiến chúng ta không chủ động nắm bắt được diễn biến giải quyết tranh chấp; khó bảo đảm được vấn đề bảo mật thông tin, hơn nữa chi phí lại rất cao, không phù hợp với khả năng trang trải của các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống (trong thời gian qua đã có 60 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó có hơn 30 trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn). Bên cạnh các luật sư có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, thì vẫn còn một số ít luật sư có biểu hiện lệch lạc trong nhận thức về quan điểm, lập trường chính trị.
Thứ tư, nhận thức của các cơ quan nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án và Viện kiểm sát về vị trí, vai trò của luật sư chưa đầy đủ nên ý kiến phát biểu của luật sư chưa thực sự được tôn trọng, vì vậy, nội dung của các quyết định, các bản án chưa phản ánh đầy đủ quan điểm, lập luận của luật sư; tính tranh tụng thật sự tại phiên tòa chưa cao.
Thứ năm, Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt vai trò tự quản của mình, chưa có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời đối với những luật sư có biểu hiện giảm sút về đạo đức, tiêu cực về nhận thức chính trị.
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư, về cơ bản, đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư còn lúng túng, chưa chặt chẽ, chưa được hướng dẫn thống nhất.
2. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh cải cách tư pháp thì vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội ngày càng được nâng cao. Tình hình đó cũng đặt ra yêu cầu phải phát triển được đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, việc phát triển đủ số lượng luật sư để tham gia tranh tụng tại các phiên toàn và hỗ trợ pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân là yêu cầu cấp thiết. Trong Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương chỉ đạo khẩn trương đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu đến năm 2020 cả nước có 18.000 – 20.000 luật sư. Đây là quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước và sự nỗ lực của cả giới luật sư và toàn xã hội.
Xuất phát từ tính chất nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng để nhận thù lao từ khách hàng, nên sự phát triển về số lượng của luật sư trước hết là nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nhiều cơ hội cho luật sư phát triển quan hệ hợp tác, giao lưu với các đối tác nước ngoài. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là của doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng.
Bên cạnh đó, yêu cầu của xã hội về chất lượng dịch vụ, trách nhiệm pháp lý, kỷ luật hành nghề đối với luật sư ngày càng cao; với việc thực hiện cam kết gia nhập WTO, sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt.
Trong thời gian tới, đội ngũ luật sư ở nước ta ngày càng đông đảo, lĩnh vực và phạm vi hành nghề tác động đến tất cả các quan hệ trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Tính chất hành nghề luật sư, vì thế, cũng ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi phải có định hướng phát triển đội ngũ luật sư phục vụ thời kỳ phát triển mới của đất nước, cụ thể như sau:
Một là, quán triệt, nâng cao nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò của luật sư và hành nghề luật sư trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và cả nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong đảng viên và nhân dân về luật sư và hành nghề luật sư; tăng cường trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư trong việc phát triển đội ngũ và nâng cao chất lượng của tổ chức và hoạt động luật sư.
Hai là, củng cố, kiện toàn tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, nhân sự chủ chốt của các đoàn luật sư; tạo điều kiện hỗ trợ ban đầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho các tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
Ba là, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội, bảo đảm có ngày càng nhiều các luật sư am hiểu pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề luật sư, có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực.
Bốn là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư; xây dựng cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư tại phiên tòa; có chính sách thúc đẩy hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư, trong đó quan tâm thích đáng đến hoạt động tư vấn pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; khuyến khích luật sư tham gia công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách và các công tác xã hội khác.
Năm là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra để bảo đảm hoạt động của luật sư được thực hiện theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
Sáu là, đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hành nghề của luật sư. Củng cố, kiện toàn tổ chức đảng trong các đoàn luật sư. Tăng cường công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đặc biệt đối với các luật sư trẻ; chú trọng công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ luật sư; phát huy tinh thần gương mẫu của luật sư là đảng viên trong hoạt động nghề nghiệp và trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bảy là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý đối với hoạt động hợp tác quốc tế của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo điều kiện cho tổ chức luật sư và luật sư Việt Nam hội nhập, giao lưu quốc tế trên cơ sở bảo đảm tuân thủ đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

DI CHÚC & THỪA KẾ DI CHÚC VỀ BĐS



 DI CHÚC & THỪA KẾ  DI CHÚC VỀ BĐS

1. Quy định về độ tuổi người lập di chúc :
- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

2. Quyền của người lập di chúc
- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

3. Di chúc hợp pháp
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được nêu trên.
- Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

4. Về hình thức di chúc:
* Nếu di chúc được lập thành văn bản thì gồm có các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc;
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
- Di sản để lại và nơi có di sản;
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
- Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc và phải tuân thủ qui định về “nội dung của di chúc bằng văn bản”

* Nếu di chúc bằng miệng, người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc:
Phải có 02 người làm chứng, riêng những người sau không được làm chứng:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự

5. Hiệu lực pháp luật của di chúc
- Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
- Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.

- Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
- Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
- Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.

Lưu ý: Đối với hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng thì có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

6. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
- Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Quy định của pháp luật về quyền thừa kế BĐS

- Quyền thừa kế của công dân được pháp luật quy định tại Pháp lệnh Thừa kế 1990.
- Năm 1995, quy định pháp luật về quyền thừa kế được đưa vào Bộ luật Dân sự 1995 - Phần Thứ tư. Riêng thừa kế quyền sử dụng đất được quy định tại Chương VI - Phần Thứ Năm.
- Năm 2005, pháp luật thừa kế được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 - Phần Thứ tư. Riêng thừa kế quyền sử dụng đất được quy định tại Chương XXXIII - Phần Thứ Năm.
- Luật Hôn nhân & gia đình 2000 ( mới 2014): Điều 27 về tài sản chung; Điều 31 về thừa kế vợ chồng).
- Nghị quyết 02/2000 ( mục 3 hướng dẫn đ 27) & Nghị quyết 01/2003 ( mục II.1 thừa kế chưa ĐKKH).
- Luật đất đai 2003 ( điều 106) & sửa đổi bổ sung 2009 (điều 4): về quyền thừa kế
- Thông tư số 161/2009/TT-BTC: Hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận quà tặng là bất động sản
- Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình
- Quyết định số 158/2002/QĐ-UB: Ban hành quy định về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp (hoặc bảo lãnh), góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu nhà trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Nghị quyết số 02/HĐTP năm 1990: Áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế
- Thông tư liên tịch số 24/TT-LB: Quy định một số chế độ đãi ngộ đối với các lương y được mời để thừa kế giảng dạy, trình bày tâm đắc kinh nghiệm


Luật hôn nhân & gia đình 2000:
Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. 
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Điều 31. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng 
1. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế. 
2. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thoả thuận cử người khác quản lý di sản.
3. Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.

Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn luật hôn nhân & gia đình 2000:
3. Tài sản chung của vợ chồng (Điều 27).
a. Khoản 1 Điều 27 đã quy định tài sản chung của vợ chồng và hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. "Những thu thập hợp pháp khác" của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân.
b. Khoản 2 Điều 27 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng".
Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.

4. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng (Điều 31)
Ngoài việc quy định cụ thể về quyền thừa kế tài sản của nhau, quản lý tài sản khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết, khoản 3 Điều 31 còn quy định:
"Trong trường hợp yêu cầu chia tài sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế".
Khi áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 31 cần chú ý:
a. Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình là trong trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu đem di sản này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...
Ví dụ 1: Trước khi kết hôn anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 25m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 20m2. Sau khi sinh được một người con thì anh C bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 20m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con.
b. Khi thuộc trường hợp tại điểm a mục này thì Toà án cần giải thích cho người có yêu cầu chia di sản thừa kế biết là họ mới chỉ có quyền yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng và họ chỉ có quyền yêu cầu chia di sản sau một thời hạn nhất định, cụ thể là ba năm, nếu trong thời hạn này bên còn sống là vợ hoặc chồng của người đã chết chưa kết hôn với người khác. Nếu họ có yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng thì Toà án thụ lý để giải quyết. Trong trường hợp này, nếu họ không được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí như đối với vụ án không có giá ngạch.
c. Toà án thụ lý yêu cầu chia di sản thừa kế đối với trường hợp được nêu tại điểm a mục 4 này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
c.1. Hết thời hạn do Toà án xác định;
c.2. Bên còn sống đã kết hôn với người khác.
Trong trường hợp này, nếu đương sự không được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí, nộp án phí như đối với vụ án có giá ngạch. 

Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn luật hôn nhân & gia đình 2000:
II. ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. Thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn
a. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế.
b. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Luật đất đai 2003 về quyền thừa kế:
Điều 106. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 110; khoản 2 và khoản 3 Điều 112; các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 113; khoản 2 Điều 115; điểm b khoản 1, các điểm b, c, d, đ và e khoản 3 Điều 119; điểm b khoản 1, điểm b và điểm c khoản 2 Điều 120 của Luật này khi có các điều kiện sau đây:
a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
2. Người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Mục 4 Chương II của Luật này.

LUẬT 38/2009/QH12 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA CÁC LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Điều 4:
"6. Thay cụm từ “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” tại tên của Mục 5 Chương II, tại khoản 3 Điều 4, các điều 6, 42, 43, 46, 47, 49, 50, 51, 90, 105, 106, 119, 122,124, 125, 126, 127, 128, 129, 130, 131, 136, 144 và 146 của Luật đất đai bằng cụm từ “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.” "

Bộ luật dân sự 1995:

Điều 634. Quyền thừa kế của cá nhân 
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 637. Di sản
1- Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
2- Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này.
Điều 739. Người được để thừa kế quyền sử dụng đất. 
Những người sau đây được để thừa kế quyền sử dụng đất: 
1- Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản; 
2- Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở; 
3- Cá nhân có quyền sử dụng đất do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Bộ luật dân sự 2005:
Chương XXIII - Thừa kế theo di chúc
Điều 646. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Điều 647.Người lập di chúc
1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Điều 648.Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Điều 649.Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Điều 650. Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Điều 651. Di chúc miệng
1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ.
Điều 652. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Điều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản
1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Điều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.
Điều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.
Điều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực
Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.
Điều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Điều 659. Người không được công chứng, chứng thực di chúc
Công chứng viên, người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Điều 660. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực bao gồm:
1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực;
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó;
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Điều 661. Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở
1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng theo quy định tại Điều 658 của Bộ luật này.
Điều 662. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị huỷ bỏ.
Điều 663. Di chúc chung của vợ, chồng
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
Điều 664. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng
1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Điều 665. Gửi giữ di chúc
1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.
3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.
Điều 666. Di chúc bị thất lạc, hư hại
1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.
Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc
1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.
3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
Điều 668. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Điều 671. Di tặng
1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.
Điều 672. Công bố di chúc
1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.
2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định nhưng người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thoả thuận cử người công bố di chúc.
3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng.
Điều 673. Giải thích nội dung di chúc
Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.
.......
Điều 679. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.

Chương XXV - Thanh toán và phân chia di sản
Điều 681. Họp mặt những người thừa kế
1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b) Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.
Điều 682. Người phân chia di sản
1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thoả thuận cử ra.
2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thoả thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thoả thuận.
Điều 683. Thứ tự ưu tiên thanh toán
Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4. Tiền công lao động;
5. Tiền bồi thường thiệt hại;
6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
7. Tiền phạt;
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;
10. Các chi phí khác.
Điều 684. Phân chia di sản theo di chúc
1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu huỷ do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
3. Trong trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.
Điều 685. Phân chia di sản theo pháp luật
1. Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thoả thuận về việc định giá hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật; nếu không thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Điều 686. Hạn chế phân chia di sản
Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thoả thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định, nhưng không quá ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.
Điều 687. Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
1. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Chương XXXIII - Thừa kế quyền sử dụng đất
Điều 733. Thừa kế quyền sử dụng đất
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Điều 734. Cá nhân để thừa kế quyền sử dụng đất
Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Điều 735. Thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.



Trong trường hợp thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đã hết mà các đồng thừa kế có tranh chấp thì giải quyết thế nào?

Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự (Điều 154 Bộ luật Dân sự).

Ðiều 645 Bộ luật Dân sự quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Như vậy, sau thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết), người thừa kế không còn quyền khởi kiện thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; và sau thời hạn là 3 năm, cá nhân, tổ chức không còn quyền khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.

Tuy nhiên, để giải quyết những vướng mắc về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 và hướng dẫn như sau:

- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản. 

Đối chiếu với quy định nêu trên thì có hai khả năng như sau:

- Thứ nhất: Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án mà nội dung khởi kiện là khởi kiện về thừa kế (như chia di sản thừa kế, xác định quyền thừa kế …) thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do đã hết thời hiệu khởi kiện.

- Thứ hai: Nếu các đồng thừa kế gửi đơn khởi kiện đến tòa án nhưng nội dung khởi kiện là yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung của các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn; trong trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.


NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 01/NQ-HĐTP NGÀY 20 THÁNG 01 NĂM 1988 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 9).

c. Đối với những trường hợp vi phạm Điều 7

Điều 7 cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây:

- Đang có vợ hoặc có chồng;

- Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc bệnh da diễu;

- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, hoặc cùng cha khác mẹ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời;

- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.

(Cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ với con cái; ông bà với cháu nội, cháu ngoại; có họ trong phạm vi ba đời tính như sau: đối với người cùng một gốc sinh ra thì cha mẹ là đời thứ nhất; anh em là đời thứ hai; con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì, con già đời thứ ba).

Đối với hôn nhân vi phạm một trong các trường hợp của Điều 7 mà có người yêu cầu huỷ việc kết hôn thì nói chung Toà án phải xử huỷ việc kết hôn. Riêng đối với trường hợp đang có vợ, có chồng mà lấy người khác thì cần chú ý:

- Đối với những cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 60/TATC ngày 22-2-1978 hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác.

- Cá biệt nếu có trường hợp vợ chồng chưa ly hôn xong nhưng một bên đã đi lấy người khác. Nếu xét thấy hôn nhân trước trong thực tế đã không còn tồn tại, hai bên không thể đoàn tụ được nữa mà một bên hoặc hai bên đã xin ly hôn thì mặc dầu hôn nhân sau là không hợp pháp, nhưng không máy móc huỷ việc kết hôn sau mà có thể chỉ xử ly hôn đối với hôn nhân trước.

Hậu quả của việc huỷ kết hôn trái pháp luật là hai bên không được duy trì quan hệ vợ chồng nữa, tài sản riêng của ai thì người đó lấy về và tài sản chung được chia theo sự đóng góp của mỗi bên. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật là do một bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối thì người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối có thể yêu cầu Toà án giải quyết quyền lợi của họ (chia tài sản chung, cấp dưỡng...) như khi ly hôn.

Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 60/TATC ngày 22-2-1978

3. Về việc giải quyết vấn đề con cái và tài sản.

Việc giải quyết các vấn đề này sẽ căn cứ vào các điều quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con cái: Việc giao con cho ai nuôi giữ, việc góp phần vào phí tổn nuôi nấng và giáo dục con cái vị thành niên, phải xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của đứa con và căn cứ vào khả năng của mỗi bên cha hoặc mẹ.

Tuy nhiên, trong trường hợp có đông con (có từ hai đứa trở lên và không còn bú) và đôi bên cha mẹ ở cách xa nhau, người ở phía Nam người ở phía Bắc không thể mõi lúc đến thăm nom con cái được, nếu họ yêu cầu giao cho mỗi bên nuôi giữ một số thì Tòa án nên chấp nhận nhằm giải quyết tình cảm của cha mẹ đối với các con, cũng như tình cảm của các con đối với cha mẹ. Nhưng đứa con còn bú nhất thiết phải giao cho mẹ.

Trong trường hợp có giải quyết khoản tiền góp vào việc nuôi dạy con, cần giúp đỡ hai bên thoả thuận vè biện pháp đóng góp (qua Bưu điện, nhà Ngân hàng, đề nghị cơ quan trích lương hàng tháng, hàng quý...) để trê ncơ sở đó mà quyết định cụ thể trong bản án.

Đối với trường hợp người cha hoặc người mẹ trốn tránh việc góp phần vào phí tổn nuôi dậy con để người nuôi giữ con gặp nhiều khó khăn trong việc nuôi dạy con, Toà án phải tìm mọi biện pháp buộc họ phải làm đầy đủ nghĩa vụ với các con.

Về tài sản: Nếu cần xử chia tài sản trong các trường hợp ly hôn, tiêu hôn trên đây. Cũng như trong các vụ ly hôn trước đây chỉ mới xử ly hôn, còn gác lại vấn đề tài sản để xét sau, thì trước khi xử chia, phải điều tra, xác minh đầy đủ về nguồn gốc, về tình trạng tài sản còn nhiều hay ít, hiện ai giữ...để việc phân chia được chính xác, thoả đáng.

Về đường lối xử lý chỉ tính vào tài sản chung để chia những tài sản của người chồng và người vợ nay phải ly hôn hay tiêu hôn mà không tính gộp cả tài sản của người vợ kia để chia.

- Đối với trường hợp trước khi ly hôn hay tiêu hôn người chồng hoặc người vợ tìm mọi cách dấu hoặc phân tán tài sản thì cần giáo dục, giải thích cho họ đem những tài sản đó ra để chia. Nếu họ không tự nguyện thì Toà án xử truy hoàn các tài sản đó để đem chia.

Trong trường hợp người chồng tập kết, sau ngày giải phóng khi trở về quê hương công tác hoặc khi đi phép về thăm quê hương, có thủ đoạn mang theo một phần lớn hoặc tát cả tiền nong, tài sản có với người vợ ngoài Bắc mà không cho vợ này biết rõ địa chỉ, hay trong trường hợp ngược lại, người chồng trở ra Bắc có thủ đoạn mang theo một phần lớn hoặc tất cả tiền nong, tài sản có với người vợ trong Nam, làm cho người vợ ở ngoài Bắc hay người vợ ở trong Nam gặp nhiều khó khăn gặp nhiều khó khăn trong đời sống thì khi thụ lý đơn kiện, Tòa án phải tìm đủ mọi cách để buộc họ có nghĩa vụ với người vợ hoặc để xử chia tài sản khi cho ly hôn hoặc tiêu hôn. Khi xử chia tài sản thì xử người chồng phải truy hoàn tài sản đã mang theo để đem chia.

Trường hợp có tính chất lừa lọc, lấy hết tài sản rồi lẩn tránh trách nhiệm với vợ con, gây tác hại lớn đến đời sống của vợ con, và gây ảnh hưởng xấu về chính trị ở địa phương Toà án nên trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân để có thể khởi tố về hình sự.