Các luật liên quan điều chỉnh hoạt động quảng cáo
(Bộ luật Hình sự, Luật Cạnh tranh, Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chất lượng sản phẩm và hàng hóa, Luật Bảo về quyền của người tiêu dùng)
(Bộ luật Hình sự, Luật Cạnh tranh, Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chất lượng sản phẩm và hàng hóa, Luật Bảo về quyền của người tiêu dùng)
Trong pháp luật hình sự, hành vi quảng cáo lừa đảo có thể coi là một tội hình sự và người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Người nào quảng cáo gian dối hàng hóa hoặc dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá nợ tiền án nhưng tái phạm tội, phải chịu phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng Việt Nam, cải tạo không giam giữ trong ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Người phạm tội có thể bị phạt từ năm đến năm mươi triệu đồng, cấm tiếp tục hành nghề hoặc làm một số công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Trong pháp luật cạnh tranh, quảng cáo để cạnh tranh không lành mạnh được liệt kê là một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 39 khoản 6 của Luật Cạnh tranh năm 2004) và là hành vi bị cấm. Theo Điều 45 của Luật Cạnh tranh, quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh bao gồm các hành vi sau đây: (1) So sánh trực tiếp hàng hoá và dịch vụ của mình với hàng hóa và dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; (2) Bắt chước các sản phẩm khuyến mại khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng; (3) Cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây: a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, sản xuất, nơi sản xuất, người chế biến, nơi chế biến; b) Phương pháp sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho người khác; (4) Các hoạt động khuyến mại khác bị pháp luật cấm.
Trong pháp luật xuất bản, quảng cáo trên các xuất bản phẩm phải tuân theo các quy định sau đây: không cho phép quảng cáo trên bản đồ hành chính. Việc quảng cáo trên lịch treo tường được thực hiện theo quy định sau đây: Diện tích quảng cáo không quá 20% diện tích của mỗi trang lịch và quảng cáo nội dung hình ảnh phải phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam và các quy định khác của pháp luật quảng cáo; Không quảng cáo trên lịch nghỉ lễ quốc gia và các ngày lễ lớn của đất nước (Điều 30 của Luật Xuất bản năm 2012). Theo Điều 49 của Luật Xuất bản, không chen quảng cáo vào nội dung hoặc làm gián đoạn nội dung của ấn phẩm điện tử bằng bất kỳ hình thức nào, trên các ấn phẩm điện tử.
Theo luật báo chí, báo chí xuất bản, quảng cáo truyền hình, lệ phí quảng cáo. Nội dung quảng cáo cần phải tách biệt khỏi nội dung tuyên truyền và không vi phạm các quy định tại Điều 10 của Luật Báo chí năm 1989 (Điều 10 quy định không có thông tin trên báo chí). Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí đã đưa vào các khái niệm về quảng cáo trên báo chí. Theo đó, quảng cáo trên báo là một hình thức thông báo, giới thiệu với công chúng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, các tổ chức dịch vụ thương mại và phi thương mại và cá nhân thuộc các loại hình báo chí (khoản 16, Điều 1). Điều 7 của Nghị định 51/2002/NĐ-CP quy định báo chí có quyền tổ chức hoạt động kinh doanh và dịch vụ trong lĩnh vực in ấn, xuất bản, phát hành sách, quảng cáo, làm phim, nhiếp ảnh và kinh doanh các thiết bị, vật liệu liên quan đến báo chí chuyên nghiệp tạo thu nhập tái đầu tư cho sự phát triển của báo chí.
Hoạt động xúc tiến liên quan đến sở hữu trí tuệ được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật Quảng cáo năm 2012 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP một số tài liệu có liên quan. Luật Quảng cáo xác định hành vi quảng cáo vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ là một trong những hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo (Mục 13, Điều 8). Điều 21 của Nghị định số 37/2006 quy định/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động xúc tiến thương mại. Theo đó, việc sử dụng các sản phẩm quảng cáo thương mại có chứa đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được sự chấp thuận của các chủ thể sở hữu trí tuệ ; thương nhân có thể đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại theo quy định của pháp luật. Luật Sở hữu trí tuệ có một số quy định liên quan đến nội dung quảng cáo tại các Điều 26, 33, 75, 124 và 130.
Trong pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tài liệu xúc tiến là các tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hoá. Cụ thể, khoản 17 Điều 3 (Giải thích thuật ngữ) Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 quy định: "Tài liệu đính kèm sản phẩm, hàng hóa bao gồm kết quả đánh giá phù hợp, tờ rơi quảng cáo, giới thiệu các tính năng, sử dụng, đặc điểm, sử dụng nhãn hiệu của sản phẩm và hàng hóa" . Hành vi thông tin, quảng cáo sai sự thật hoặc có hành vi lừa đảo về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, xuất xứ hàng hoá được xác định là một trong những hành vi bị cấm theo quy định tại khoản 9 Điều 8 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007.
Trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, người tiêu dùng có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả, hoặc các nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa và dịch vụ đã công bố, viết hóa đơn, quảng cáo hoặc cam kết (khoản 6 Điều 8 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010). Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đều bị nghiêm cấm hành vi gian lận hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua các hoạt động xúc tiến hoặc che giấu thông tin được cung cấp với các nội dung còn thiếu, sai lệch, không chính xác theo quy định tại các điểm a, b, c, khoản 1, Điều 10 của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thời gian gần đây, đơn cử người tiêu dùng bị mất số điện thoại và sau đó tài khoản ngân hàng bị lấy cắp đã làm dấy lên lo ngại về vấn đề sử dụng các phương thức điện tử trong giao dịch tài chính, thương mại hàng ngày. Vấn đề đặt ra liên quan tới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch điện tử, đặc biệt trong lĩnh vực TMĐT.
Nhiều người tiêu dùng đang bức xúc vì một ngày nhận được đôi, ba chục tin nhắn điện thoại với các nội dung quảng cáo, chào mời dịch vụ hoặc dụ dỗ chơi cá cược,…Các tin nhắn này phần lớn có mục đích lừa đảo, hướng dẫn người xem thực hiện theo các yêu cầu để có thể thu lợi bất chính. Nếu thực hiện theo các hướng dẫn này, người tiêu dùng có thể ngay lập tức bị trừ tiền trong tài khoản. Nếu tỉnh táo, không thực hiện theo các nội dung hướng dẫn thì người tiêu dùng cũng cảm thấy bức xúc và khó chịu khi liên tục phải mở điện thoại để kiểm tra tin nhắn.
Hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng đối với lĩnh vực giao kết hợp đồng trên phương tiện điện tử chủ yếu tập trung vào hành vi không cung cấp thông tin đẩy đủ, chính xác; không cung cấp thời gian nghiên cứu và chính sách chấm dứt hợp đồng…
Lợi dụng khoảng cách trong các giao dịch giữa người mua và người bán, một trong những gian lận tiêu dùng chủ yếu xảy ra trong thời gian hiện nay là vấn đề quảng cáo gian dối, cố tình gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Vụ việc tiêu biểu cho hành vi này là hiện tượng quảng cáo và bán vòng Titan Quan Âm xảy vào năm 2009. Theo đó, vì tin tưởng vào nội dung quảng cáo được phát liên tục trên các đài truyền hình và mạng internet, rất nhiều người đã mua vòng Titan Quan Âm với giá bán gần 1 triệu đồng, kèm theo sự tin tưởng đeo chiếc vòng này sẽ chữa được bách bệnh, phòng được mọi rủi ro. Thực tế, giá gốc của chiếc vòng này chỉ là 4000đ, nhập khẩu từ Trung Quốc và làm chủ yếu từ nguyên liệu sắt chứ không phải Titan, vàng, kim loại quý như quảng cáo. Thậm chí nhiều sau khi mua sản phẩm về họ cũng không biết được mình đã bị lừa đảo. Chỉ đến khi cơ quan chức năng vào cuộc, công bố kết quả kiểm tra sản phẩm thì người tiêu dùng mới biết. Những hành vi tương tự vẫn đang có chiều hướng tiếp diễn với các mặt hàng: mỹ phẩm, đồ gia dụng, điện thoại…
Ở mức độ lớn hơn là vụ Mạng lưới Muaban24 vừa qua vào tháng 8 năm 2012. Theo đó, các đối tượng lừa đảo đã dụ dỗ người tiêu dùng mua bán các gian hàng ảo trên Internet với số tiền lớn, sau đó được trích hoa hồng cao khi giới thiệu những người khác cùng mua hàng. Về bản chất, nếu việc mua bán các gian hàng ảo để phục vụ cho hoạt động kinh doanh online thì đây là hoạt động bình thường. Tuy nhiên, trong mạng lưới Muaban24, việc mua các gian hàng ảo chỉ là hành vi đánh lừa thị giác, nhằm tạo ra cái cớ để thúc đẩy hành vi kiếm tiền hoa hồng từ người mua sau theo mô hình đa cấp kim tự tháp. Khi công an vào cuộc thì Muaban24 đã phát triển đại diện tại hơn 50 tỉnh thành trong cả nước chỉ trong 1 năm, đã bán được hơn 120.000 gian hàng, doanh thu thu về hơn 600 tỷ đồng, trong đó các đối tượng lừa đảo bỏ túi riêng 200 tỷ đồng.
Quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT
Đứng trước những vụ việc xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng trong thời gian gần đây, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định những điều khoản nhằm đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng khi tiến hành các giao dịch điện tử. Bên cạnh các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, thì các quy định về kiểm soát hoạt động giao dịch điện tử cũng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác.
Quy định nhằm bảo vệ an toàn thông tin cá nhân.
Tại Điều 6 của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Luật) có quy định về quyền của người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp các doanh nghiệp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng thì doanh nghiệp có trách nhiệm:
a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;
b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải được người tiêu dùng đồng ý;
c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu dùng;
d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Để thực hiện các quy định này thì các doanh nghiệp lưu ý khi xây dựng Chính sách thông tin của doanh nghiệp cần đảm bảo thực hiện đầy đủ các quy định nêu trên và công bố công khai cho người tiêu dùng được biết. Đặc biệt, cần lưu ý tới quy định mới liên quan đến quyền chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba. Theo đó, người tiêu dùng có quyền thể hiện ý kiến chấp nhận hay không chấp nhận khi doanh nghiệp muốn chuyển thông tin của họ cho bên thứ ba.
Quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng trong TMĐT.
- Thông tin được cung cấp đầy đủ, chính xác;
- Người tiêu dùng phải được thông báo rõ ràng về các quy định, điều khoản, về quy trình ký hợp đồng mua bán trước khi ký hợp đồng;
- Người tiêu dùng có quyền xem xét và đồng ý tham gia hợp đồng;
- Người tiêu dùng có quyền xem, chỉnh sửa, tải về các tài liệu liên quan tới GDDT.
Để đảm bảo các quyền lợi nêu trên của người tiêu dùng, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định như sau:
Điều 17 của Nghị định 99/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật (NĐ 99) quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng. Theo đó, khi giao kết hợp đồng từ xa, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản, ví dụ Tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh, số điện thoại liên lạc, địa chỉ, trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng (nếu có); Chất lượng của hàng hóa, dịch vụ; Chi phí giao hàng (nếu có); Phương thức thanh toán, phương thức giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ;…
Ngoài ra, trường hợp bên thứ ba cung cấp dịch vụ tới người tiêu dùng thì bên thứ ba cũng phải Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụnhư quy định tại Điều 13 của NĐ 99.
Như vậy, theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải chịu trách nhiệm khi cung cấp thông tin tới người tiêu dùng, mà ngay cả các đơn vị quảng cáo, các nhà báo, đài, truyền hình cũng phải chịu trách nhiệm liên đới khi đăng tải các thông tin quảng cáo. Quy định này tiếp tục được mở rộng khi quy định chủ phương tiện truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm: Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối người tiêu dùng; Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối người tiêu dùng theo yêu cầu của người tiêu dùng hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định này, đối với các vấn nạn spam tin nhắn điện thoại di động, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải có trách nhiệm thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn và chấm dứt hành vi vi phạm này.
Liên quan đến chứng từ trong giao dịch điện tử, khoản 2 điều 20 của Luật cũng quy định về trách nhiệm của người bán trong việc tạo điều kiện cho người tiêu dùng truy nhập, tải, lưu giữ và in hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch. Để đáp ứng quy định này, các trang web bán hàng qua mạng cần tích hợp các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng truy cập, sao lưu chứng từ của người tiêu dùng.
Nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp doanh nghiệp cố tình không cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin giao dịch hoặc quảng cáo thông tin gian dối, khoản 2 điều 17 của NĐ 99 cũng quy định quyền của người tiêu dùng được đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đã giao kết và thông báo cho tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thời hạn mười (10) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng. Nếu trường hợp này xảy ra, doanh nghiệp phải trả lại tiền cho người tiêu dùng chậm nhất là ba mươi (30) ngày kể từ ngày người tiêu dùng tuyên bố đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Quá thời hạn này, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán. Việc hoàn trả được thực hiện theo phương thức mà người tiêu dùng đã thanh toán, trừ trường hợp người tiêu dùng đồng ý thanh toán bằng phương thức khác.
Như vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT đã được nhấn mạnh và quy định theo sát thực tế của hoạt động TMĐT. Vấn đề còn lại là ý thức của người tiêu dùng trong việc lựa chọn và quyết định các giao dịch trên các phương tiện điện tử, đồng thời, phải khẳng định vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát và có các chế tài xử phạt thích đáng đối với các chủ thể có hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét