Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

Án lệ 26: Vụ Thừa kế nhà 66-Đồng Xuân-Hà Nội



Án lệ 26: Vụ Thừa kế nhà 66-Đồng Xuân-Hà Nội


Trong trường hợp không biết địa chỉ của một hay một số người thừa kế, có thể khởi kiện xin chia thừa kế được không?


Cụ Vũ Đình Quảng (chết năm 1979) và vợ là cụ Nguyễn Thị Thênh (chết năm 1987) là chủ sở hữu nhà 66 phố Đồng Xuân, thành phố Hà Nội, có 6 người con là: ông Vũ Đình Hưng (nguyên đơn), bà Vũ Thị Hiền (bị đơn), bà Vũ Thị Hậu (bị đơn); và 3 người ở nước ngoài là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo.

Ngày 28-10-1982, có sự chứng kiến của cụ Thênh (cụ Thênh không ký vào văn bản), ông Hưng cùng bà Hiền, bà Hậu đã lập tờ "Họp gia đình" phân chia nhà 66- Đồng Xuân làm 3 phần và sử dụng theo phân chia này. Năm 1989, bà Hiền đã bán phần nhà đang sử dụng cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Năm 1993, bà Hậu bán phần nhà đang sử dụng cho bà Hà Thúy Linh.

Năm 1993, ông Hưng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà 66-Đồng Xuân vì cho rằng việc phân chia năm 1982 chỉ là tạm chia để sử dụng và những người thừa kế ở nước ngoài đã ủy quyền cho ông quản lý phần của họ. Bà Hiền và bà Hậu cho rằng việc phân chia năm 1982 là chính thức và họ chỉ bán đúng phần mà họ được chia.

Vụ án đã được xét xử sơ thẩm lần đầu tại bản án số 20/DSST ngày 23-5-1995 của TAND thành phố Hà Nội. Khi đang ở giai đoạn xét xử phúc thẩm lần thứ hai, Tòa án cấp phúc thẩm ra Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án (ngày 15-7-1997). Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH ngày 27-7-2006,Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục giải quyết vụ án và đã quyết định hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại. TAND thành phố Hà Nội đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định này bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy. TAND thành phố Hà Nội tiếp tục có Quyết định số 54/DS-ST ngày 30-9-2009 đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với lý do nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ của một số đương sự (có thông tin là ông Đường, bà Thảo đã chết nên các thừa kế của họ trở thành những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Tại Quyết định phúc thẩm số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội đã quyết định giữ nguyên quyết định sơ thẩm số 54/DS-ST của TAND thành phố Hà Nội. Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm đối với Quyết định phúc thẩm số 44/2010/QĐ-PT ngày 09-3-2010 của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội.

Tại phiên họp ngày 12-8-2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND tối cao; hủy Quyết định phúc thẩm số 44/2010/QĐ-PT và hủy Quyết định sơ thẩm số 54/DS-ST; giao cho TAND thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán có vấn đề pháp lý quan trọng là:

Có một số người thừa kế không rõ địa chỉ và vấn đề đặt ra là có thể giải quyết chia thừa kế vắng mặt họ hay không? Đây là vấn đề đã được đặt ra từ lâu, và đã có một thời gian, các Tòa án vẫn giải quyết chia thừa kế, giao phần thừa kế của người vắng mặt cho thừa kế khác quản lý. Đến thời điểm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự (01-01-2005), từ quy định nguyên đơn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ của bị đơn, những người khác có đưa ra yêu cầu (yêu cầu độc lập hoặc yêu cầu phản tố) phải cung cấp địa chỉ của những người liên quan đến yêu cầu, dẫn đến nhận thức là chưa đủ điều kiện khởi kiện nếu không cung cấp được địa chỉ của tất cả các đương sự. Mặc dù tại Điểm a Khoản 1 Điều 36 BLTTDS có quy định " Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng…giải quyết" có nghĩa là nguyên đơn chỉ cần nêu ra địa chỉ sau cùng nhưng trong những trường hợp như vụ án này, có những đương sự chưa hề có thông tin về địa chỉ của họ (những người con của ông Đường, bà Thảo) và họ không phải là người cố tình trốn tránh thì cần phải xử lý như thế nào?

Hội đồng Thẩm phán xét thấy cần tiếp tục giải quyết vụ án chia thừa kế và giao cho người thừa kế có địa chỉ tạm quản lý kỷ phần thừa kế của người vắng mặt là đảm bảo quyền lợi của cả những người có mặt và những người vắng mặt. Tất nhiên, để đảm bảo quyền tố tụng của đương sự, cần thực hiện việc thông báo, tống đạt, áp dụng các biện pháp ủy thác tư pháp theo đúng quy định của pháp luật tố tụng và thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án.

Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:

Trong trường hợp không biết địa chỉ của một hay một số người thừa kế vẫn có thể khởi kiện chia thừa kế. Những người thừa kế chưa rõ địa chỉ vẫn là đương sự của vụ án và họ vẫn được thông báo, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và những quy định về ủy thác tư pháp. Khi đã thu thập đủ chứng cứ xác định những vấn đề của vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của từng đương sự, Tòa án có thể chia thừa kế và tạm giao cho thừa kế có mặt tạm quản lý kỷ phần thừa kế của người thừa kế không rõ địa chỉ.

Chu Minh



0 nhận xét:

Đăng nhận xét