Án lệ 30: Trong vụ án chia thừa kế, người đang trực tiếp quản lý di sản có tranh chấp được chia thừa kế đúng di sản mà họ đang quản lý thì có cần quyết định cụ thể giao sở hữu (hoặc quyền sử dụng đất) cho họ không?
Vụ kiện chia thừa kế nhà 43 Lý Bôn, thành phố Cà Mau giữa nguyên đơn Trần Văn Thành và đồng nguyên đơn Trần Thị Thu Dung với bị đơn Trần Thu Cúc được TAND tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm. Bản án phúc thẩm bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm là bản án phúc thẩm số 14/2010/DSPT ngày 29-01-2010 của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Các nguyên đơn xin chia thừa kế nhà 43 Lý Bôn theo pháp luật và không thừa nhận các di chúc do bị đơn (bà Cúc) xuất trình với lý do họ không biết về các di chúc này. Bà Cúc trình bày bà đã có di chúc của cha mẹ giao cho bà được sở hữu toàn bộ ngôi nhà 43 Lý Bôn; cụ thể là di chúc bằng văn bản ngày 26-10-2000 của cụ Suối (cha của các đương sự) và di chúc miệng của cụ Nga (mẹ của các đương sự).
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều nhận định không có cơ sở xác điịnh cụ Nga có di chúc nhưng di chúc của cụ Suối là có thật và hợp pháp một phần (đối với phần quyền tài sản trong tài sản chung của cụ Suối và cụ Nga).
Xác định nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm là đúng quy định của pháp luật. Cụ Nga chết ngày 02-5-1997, cụ Suối chết ngày 13-3-2007 nhưng lập di chúc cuối cùng vào ngày 16-10-2000 nên di chúc của cụ Suối và cụ Nga đều phải được xem xét theo quy định của BLDS năm 1995 (có hiệu lực từ 01-7-1996 đến 31-12-2005). Theo quy định tại Điều 655 BLDS năm 1995 về di chúc hợp pháp thì ngoài việc xác định di chúc có nội dung đúng ý chí người lập di chúc, không vi phạm điều cấm… thì còn phải tuân theo đúng quy định về hình thức di chúc.
Di chúc đề ngày 16-10-2000 của cụ Suối là di chúc bằng văn bản đánh máy, có xác nhận của UBND phường 2 là do cụ Suối ký. Như vậy, di chúc này đúng quy định về hình thực loại di chúc có xác nhận của UBND xã, phường được quy định tại Điều 660 BLDS năm 1995.
Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đã xác định bà Cúc được hưởng thừa kế theo di chúc phần di sản của cụ Suối (1/2 nhà 43 Lý Bôn), còn phần di sản của cụ Nga được chia thừa kế theo pháp luật cho ông Thành, bà Cúc, bà Dung. Tuy vậy, tại phần quyết định của bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đều chỉ tuyên "Buộc bà Cúc giao cho ông Thành và bà Dung mỗi người 375 triệu đồng" mà không tuyên giao nhà 43 Lý Bôn cho bà Cúc sở hữu.
Do Cơ quan Thi hành án có kiến nghị và bà Cúc có khiếu nại, bản án phúc thẩm đã bị Chánh án TAND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.
Tại Phiên họp ngày 08-7-2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, giao cho TAND tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm lại. Việc phải xét xử sơ thẩm lại còn có lý do để xem xét công sức chăm sóc cha mẹ và công sức quản lý nhà đất (của bà Cúc) nhưng căn cứ chủ yếu của việc hủy án là bỏ sót không tuyên giao sở hữu nhà 43 Lý Bôn cho bà Cúc.
Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:
Trong việc chia thừa kế cũng như chia tài sản chung cần quyết định chia cụ thể cho từng người tài sản gì, kể cả trường hợp bị đơn là người vẫn quản lý tài sản và nay họ được chia toàn bộ hiện vật. Việc bỏ sót không quyết định (với người nào đó hoặc tài sản nào đó) không thể khắc phục được bằng biện pháp sửa chữa, bổ sung bản án.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét