Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

MỘT SỐ LƯU Ý KHI GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

MỘT SỐ LƯU Ý KHI GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình (viết tắt là Luật HNGĐ năm 2014), có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 và thay thế Luật HNGĐ năm 2000. Để kịp thời hướng dẫn các quy định của Luật HNGĐ năm 2014; ngày 31/12/2014 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HNGĐ năm 2014. Khi áp dụng Luật HNGĐ năm 2014 đối với các vụ việc về hôn nhân và gia đình có một số điểm mới cần lưu ý:
1. Về quan hệ hôn nhân:
- Đối tượng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn đã được mở rộng: Theo Luật HNGĐ năm 2000 chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, kể từ ngày Luật HNGĐ năm 2014 có hiệu lực thì cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ[1].
- Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng. So với Luật HNGĐ năm 2000 thì Luật HNGĐ năm 2014 đã hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng bị trong trường hợp vợ “sinh con”.
- Về căn cứ để Tòa án giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của một bên đã bổ sung thêm một số căn cứ. Do đó, khi giải quyết về quan hệ hôn nhân nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì Tòa án xem xét giải quyết cho ly hôn, cụ thể:
+ Vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;
+ Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn;
+ Có yêu cầu ly hôn theo khoản 2 Điều 51 Luật HNGĐ năm 2014, đồng thời có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
2. Về quan hệ con:
- Khi giải quyết các vụ án ly hôn về con chung do vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Tuy nhiên, nếu con từ đủ 07 tuổitrở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con và được áp dụng trong trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con. Như vậy, giải quyết các vụ việc liên quan đến con chung thì Tòa án cần lưu ý khi con từ đủ 07 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con.
- Tại khoản 1 Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”. Do đó, khi giải quyết các tranh chấp về việc xác định con chung thì đây là một căn cứ pháp lý để Tòa án xác định là con chung hay không phải là con chung.
- Luật HNGĐ năm 2014 đã chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tại Điều 99 Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Do đó, khi phát sinh tranh chấp về vấn đề này và có yêu cầu thì Tòa án phải tiến hành thụ lý, giải quyết, cụ thể trong một số trường hợp sau:
+ Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
+ Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.
+ Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bên mang thai hộ không nhận nuôi đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người giám hộ và cấp dưỡng cho đứa trẻ theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và Bộ luật dân sự. 
3. Về cấp dưỡng:
Luật HNGĐ năm 2014 đã đề cao trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình đối với nhau, điều đó được thể hiện tại quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, bác ruột và cháu ruột.
Luật cũng quy định cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức khi phát hiện hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị một số cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
4. Về quan hệ tài sản:
Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định về chế độ tài sản áp dụng chung cho tất cả vợ chồng, theo đó vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.
- Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực; chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
- Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung; thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật HNGĐ năm 2014.
4.1. Chế độ tài sản theo luật định:
Luật HNGĐ năm 2014 quy định cụ thể về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nghĩa vụ tài sản chung, nghĩa vụ tài sản riêng của vợ chồng làm cơ sở cho việc giải quyết trong thực tế. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng đối với bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì việc định đoạt phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Khi áp dụng chế độ tài sản theo luật định đối với các vụ việc hôn nhân và gia đình cần lưu ý:
4.1.1.Tài sản chung của vợ chồng:
- Giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, “ trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”. Trường hợp chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng mà có tranh chấp về tài sản đó mà không có căn cứ để chứng minh đó là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung “do vợ chồng thỏa thuận”. Trong các trường hợp sau việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng gồm: Bất động sản; Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
- Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Tuy nhiên, thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật HNGĐ năm 2014.
4.1.2 Tài sản riêng của vợ chồng:
 - Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
- Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
- Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng; tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó; nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
4.1.3. Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng:
Tại Điều 59 Luật HNGĐ năm 2014 đã quy định những nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, những nguyên tắc này được áp dụng khi vợ, chồng có yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trong đó cần lưu ý: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
4.2. Chế độ tài sản theo thỏa thuận:
- Luật HNGĐ năm 2014 bổ sung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật quy định về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng; theo đó thỏa thuận phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
- Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HNGĐ năm 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.
- Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản; nhưng hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận phải bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
- Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
+ Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HNGĐ năm 2014;
+ Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Như vậy, Luật HNGĐ năm 2014 đã có nhiều điểm mới so với Luật HNGĐ năm 2000, đặc biệt đối với các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình trên thực tế. Mặc dù, Luật HNGĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015; nhưng đối với vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý trước ngày Luật HNGĐ năm 2014 có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp dụng thủ tục theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014.
 Vũ Minh Giám


0 nhận xét:

Đăng nhận xét