Vụ án 18:
Kiện chia thừa kế giữa nguyên đơn Ngô Văn Thời và bị đơn Ngô Văn Cử ở TP. Cần Thơ
Không tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm, có thể đưa vào tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm hay không? Di sản là đất đã bị thu hồi một phần, đền bù bằng tiền và đất tái định cư thì xác định di sản là đất đã bị thu hồi hay tiền đền bù và đất tái định cư?
Cố Dương Thị Hiến (chết năm 1935) và cố Ngô Văn Khuê (chết năm 1947) có 6 người con, trong đó có cụ Ngô Văn Thời và cụ Ngô Văn Cử. Sinh thời, cố Khuê và cố Hiến có một ngôi nhà 3 gian làm trên đất của người khác. Cụ Cử quản lý nhà này đến năm 1972 thì dỡ nhà, trả đất, làm nhà mới trên đất do cố Khuê đứng bộ (diện tích 0m70s40m2, Bằng khoán lập ngày 12-9-1937).
Tại đơn đề ngày 06-5-1988, cụ Thời yêu cầu chia thừa kế phần đất cụ Cử đang quản lý (có diện tích đo thực tế là 11.355m2). Cụ Cử không đồng ý chia thừa kế vì cho rằng đã quản lý đất này từ lâu và đất hiện nay chỉ còn khoảng 3000 m2 do đã chuyển nhượng và do Nhà nước thu hồi đất xây dựng trạm bơm Rạch Ngỗng (gia đình cụ Cử có nhận tiền bồi thường và 2 nền nhà tái định cư).
Vụ án đã được xét xử nhiều lần. Bản án sơ thẩm lần cuối là Bản án số 04/2011/DSST của TAND thành phố Cần Thơ đã xác định di sản thừa kế là 7040 m2 đất và chia cho các thừa kế của cụ Khuê và cụ Hiến (diện tích 4315 m2 đất còn lại tuyên bố tách ra chưa giải quyết vì chưa đủ căn cứ là di sản thừa kế). Cụ Cử và một số đương sự có kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 145/2012/DSPT ngày 18-4-2012, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm đã bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.
Tại phiên họp ngày 27-9-2013, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã quyết định hủy Bản án dân sự sơ thẩm và Bản án dân sự phúc thẩm; giao cho TAND thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm lại. Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán có một số vấn đề pháp lý quan trọng sau:
1.Về việc bỏ sót người tham gia tố tụng:
Cụ Trần Thị Cẩm Vân (vợ cụ Cử) là người cùng quản lý, sử dụng đất tranh chấp với cụ Cử. Do vậy, trong vụ án tranh chấp thừa kế này, phải xác định cụ Vân là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa cụ Vân vào tham gia tố tụng. Tòa án cấp phúc thẩm đã đưa cụ Vân vào tham gia tố tụng phúc thẩm.
Kháng nghị giám đốc thẩm cho rằng việc đưa cụ Vân vào tham gia tố tụng ngay ở cấp phúc thẩm là vi phạm “chế độ hai cấp xét xử”. Quyết định giám đốc thẩm xác định việc đưa cụ Vân vào tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm nếu được cụ Vân đồng ý thì không phải là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, không phải là căn cứ hủy bản án phúc thẩm.
Chế độ hai cấp xét xử không có nghĩa là mọi vụ án phải được xét xử ở hai cấp. Việc xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là xét xử thông thường và khi có đủ điều kiện thì phải được thực hiện (khác với xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm là trình tự xét xử đặc biệt). Cụ Vân chưa tham gia tố tụng sơ thẩm chứ không phải quan hệ tranh chấp liên quan đến cụ Vân chưa được xét xử sơ thẩm. Phạm vi xét xử phúc thẩm là sự việc đã được xét xử sơ thẩm và có kháng cáo hoặc kháng nghị hợp lệ. Việc chia thừa kế đối với diện tích đất mà cụ Vân tham gia quản lý đã được xét xử sơ thẩm và bị kháng cáo nên thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm. Cụ Vân có quyền tham gia tố tụng từ cấp sơ thẩm dể bảo vệ quyền lợi của mình nhưng nếu cụ Vân thấy không cần giải quyết sơ thẩm lại mà yêu cầu được tham gia tố tụng ngay ở cấp phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm đưa cụ Vân vào tham gia tố tụng là không vi phạm quy định nào về tố tụng cũng như không vi phạm quyền tố tụng của cụ Vân (cũng như khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm thì đương sự nào cũng có quyền đề nghị Tòa án xử vắng mặt họ).
2.Về xác định di sản khi di sản là đất đã bị thu hồi một phần:
Tính chất của di sản được xác định ngay ở thời điểm mở thừa kế là để xác định tính chất của giao dịch, trên cơ sở đó xác định đúng pháp luật cần áp dụng, đặc biệt là vấn đề thời hiệu khởi kiện (thừa kế nhà ở thì áp dụng pháp luật về nhà ở, thừa kế về đất thì áp dụng pháp luật về đất đai).
Tuy nhiên, từ khi mở thừa kế đến khi chia thừa kế thì di sản có thể thay đổi và việc chia thừa kế là chia di sản thực tế còn tồn tại khi chia, có xem xét đến diễn biến của di sản trước đó. Vì vậy, phần đất đã bị thu hồi thì không còn là đất di sản mà tiền đền bù thu hồi đất mới là di sản.
3.Đất tái định cư có phải là di sản hay không?
Khi thu hồi đất, Nhà nước trả cho chủ sử dụng đất tiền đền bù thu hồi đất, và trong một số trường hợp, còn cấp đất tái định cư cho người đang sử dụng đất. Mục đích cấp đất tái định cư là tạo điều kiện tạo lập chỗ ở mới cho người đang sử dụng đất. Người đang sử dụng đất có thể là chủ sử dụng đất và cũng có thể không phải là chủ sử dụng đất nên nói chung, đất tái định cư không phải là khoản đền bù cho chủ sử dụng đất. Và do vậy, đất tái định cư không đương nhiên là di sản (chuyển hóa từ đất di sản đã bị thu hồi). Đất tái định sư chỉ là di sản khi được cấp không chỉ với mục đích tạo điều kiện có chỗ ở mới mà còn là việc đền bù bằng hiện vật (tiền đền bù bao gồm cả đất).
Vấn đề pháp lý có thể rút ra là:
1.Quan hệ tranh chấp đã được xét xử sơ thẩm mà có đương sự không được tham gia tố tụng sơ thẩm nhưng nếu họ tư nguyện không yêu cầu xét xử sơ thẩm lại thì họ có thể tham gia ngay tố tụng phúc thẩm.
2.Di sản là đất bị thu hồi (một phần hoặc toàn bộ) thì di sản để chia thừa kế là tiền đền bù thu hồi đất.
3.Đất tái định cư được cấp do thu hồi đất không đương nhiên là tiền đền bù thu hồi đất nếu không có căn cứ xác định việc đền bù là đền bù bằng hiện vật (đất) hay có một phần bằng hiện vật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét